Nữ đạo diễn Thanh Tâm và ‘Bóng Quá Khứ’ của người Việt tỵ nạn

Nữ đạo diễn Thanh Tâm và poster phim “Bóng Quá Khứ” – Ảnh: Thanh Tâm cung cấp

Thanh Tâm được người Việt tại Canada biết đến từ khi cô còn là Giám đốc SBTN Canada (2014 – 2019), và thành lập Vomedia (2014). Từ năm 2017, cô đồng sáng lập và là giám đốc của VIETLIVE TV, một trong những chương trình truyền thông xã hội thành công nhất của người Việt Nam ở hải ngoại. Năm 2018, cô tham gia chương trình đào tạo đạo diễn điện ảnh của Trường Điện ảnh Toronto và tốt nghiệp với Her Little Rose, phim ngắn đoạt nhiều giải thưởng trong các liên hoan phim quốc tế: Mỹ, Anh, Úc, Canada, Mexico, Singapore, Venezuela, Ấn Độ…

Cuốn phim ngắn đầu tay của Thanh Tâm mang tên “Bông Hồng Của Mẹ” được nhiều giải thưởng trong các liên hoan phim quốc tế ở Anh, Canada, Singapore, Úc, Mỹ, Ý, Đức và các nước khác, mang về cho cô hai giải phim ngắn hay nhất Los Angeles và Singapore, cùng 4 giải thưởng nổi bật (Thành tích xuất sắc) của liên hoan quốc tế tại Ấn Độ.

Đạo diễn Thanh Tâm và 6 diễn viên chính trong bộ phim “Bóng Quá Khứ” – Ảnh: Thanh Tâm cung cấp

“Bóng Quá Khứ” (A Realm Of Return) là bộ phim thứ hai của Thanh Tâm. Bộ phim đoạt được khá nhiều Vòng Nguyệt Quế tại các liên hoan phim trong hai năm qua, như: (1) Toronto-Toronto Film and Script Award 2021, (2) 25th season World Film Carnival Singapore, (3) Toronto Indie Shorts 2021, (4) Vancouver Independent Film Festival, (5) Dream Catcher International Festival, (6) LA Independent Film Festival, (7) Europe Film Festival UK.

Ngoài ra bộ phim còn được chọn vào chung kết nhiều cuộc thi điện ảnh ở Canada và Hoa Kỳ.

“Bóng Quá Khứ” dựa theo một câu chuyện có thật của một người bạn. Mới đầu Thanh Tâm chỉ muốn làm một phim ngắn khoảng 20 phút. Nhưng khi xem xong kịch bản, người bạn kể câu chuyện đó góp ý thêm, và cô quyết định viết thêm thành bộ phim dài 52 phút.

Nga đặt di ảnh Khoa lên bàn thờ và thắp hương cho chồng

Điều đó cũng có nghĩa Thanh Tâm chấp nhận “đánh đu” với số phận của bộ phim này. Chấp nhận đối diện với nhiều khó khăn hơn, nhất là về kinh phí thực hiện. Thanh Tâm kể:

“Khó khăn đầu tiên là thuyết phục chồng tôi về dự án này. Sau khi nghe tôi kể về dự án và kế hoạch thực hiện, anh ấy nói với tôi là ‘em điên rồi!’ (cười) Anh nói tôi không bình thường, và ‘đừng sống ở trên mây nữa’, xuống đất giùm anh, trở lại đời thường giùm đi. Tôi nói với ảnh là ‘hồi trước chẳng bao giờ em tin là mình có thể đẻ cho anh ba đứa con, mà giờ em làm được đấy thôi! Thì bây giờ bộ phim này em cũng sẽ làm được.”

Cuối cùng chồng Thanh Tâm cũng xuôi theo ý cô, ủng hộ vợ làm nghệ thuật. Cô kể tiếp: “Nhưng sau lần tôi nói phải mất khoảng 300 ngàn đô làm phim, thì ảnh bị ‘nhồi máu cơ tim’.”

Chuyện này cũng bình thường thôi. Ông chồng nào nghe vợ mình nói thế không “nhồi máu cơ tim” thì cũng “hạ đường huyết”.

Thu đến thăm Nga nhân lễ cúng 49 ngày sau khi Khoa mất

Nói vui thể để hiểu tính cách của cô đạo diễn trẻ này. Khi cô cương quyết làm thì chỉ có… trời cản!

Thanh Tâm kể, trong thời gian làm phim cô cực lắm, vì phải làm nhiều vai trò một lúc, từ biên kịch, đạo diễn, phục trang, trang điểm, đạo cụ, tuyển, mời diễn viên,… 1001 việc của đoàn phim cô làm hết, kể cả việc kêu gọi “cứu đói”. Cô kể:

“Do phải mướn phim trường, và muốn tiết kiệm tiền, đoàn làm phim phải làm việc mười mấy tiếng một ngày nhiều ngày liền, nên tôi phải lo ăn uống cho họ. Có lần tôi hết sạch tiền. Cả đoàn khoảng 40 chục người không còn gì ăn cho tuần lễ kế tiếp. Túng quá, tôi lên Facebook than thở. Ơn trời, có người nghe thấy, chạy xe hơn hai tiếng đồng hồ đến phim trường đưa cho tôi tờ check ‘nuôi’ quân.”

Thế đấy! Có những người như “từ trên trời rơi xuống” giúp không cần điều kiện gì cả, cứ xài trước, trả sau. Bạn bè, một số mạnh thường quân góp vốn giúp cô vì tin cô “làm được việc” dù không nhiều nhưng toàn là người có tâm. Thế là cô cứ từng bước vượt qua khó khăn về kinh phí.

Thu gặp lại bà Phấn tại chùa nhân 100 ngày sau khi Khoa mất

Cái khó vượt nhất không phải là kinh phí mà là vượt qua nỗi sợ hãi của bản thân. Qua bộ phim này, có lẽ Thanh Tâm hiểu vì sao cô ấy lại vượt qua được.

Cô nói mọi chuyện đều có thể giải quyết được hết, chỉ sợ phụ lòng người đã giúp mình. Vì thế, cô không thể thất bại.

Cô kể, khi đi chọn bối cảnh quay bên ngoài, cô phải vào một số nghĩa trang vào buổi chiều tối, nơi bình thường cô không bao giờ dám bước chân vào một mình. Sợ nhưng vẫn phải vào, ra về vẫn còn run, nhưng cô thở phào nhẹ nhõm, cô đã tìm được một nơi ưng ý cho tang lễ của nhân vật trong bộ phim.

Rồi có lần cô đi mướn một chiếc quan tài quay cảnh tang lễ. Hãy tưởng tượng một cô gái trên chiếc xe với chiếc quan tài phía sau trên đoạn đường dài mấy tiếng đồng hồ. Ai chẳng sợ. Tôi hỏi cô, nếu phải nằm vào trong quan tài để tìm ý tưởng hay cảm giác cho một bộ phim nào đó, cô có dám làm không? Thanh Tâm cười phá lên nhưng không trả lời. Tôi nghĩ cô sợ, nhưng sẽ làm.

Cướp biển Thái Lan đang trấn áp Thuyền Nhân

Tính cách của đạo diễn trẻ Thanh Tâm là như thế. Cô khai phá cho mình một hướng đi mới bằng cách riêng của mình. Dù sinh sau năm 1975, nhưng sự cố gắng quay về nghiên cứu văn hóa, phong tục người Việt, thậm chí nghiên cứu phục trang, cách chưng diện của phụ nữ thời cô chưa sinh ra là một cố gắng tái tạo lịch sử nguyên vẹn. Ngay cả con tàu cô mua về, rồi cho thợ đập ra dựng lại cho giống nguyên mẫu con tàu vượt biên của người Việt làm một sự chỉnh chu cần thiết cho bộ phim chuyên chở nỗi đau cả một thế hệ.

Điều ngạc nhiên là “nỗi đau của cả một thế hệ” được gói ghém trong số phận của ba người đàn bà, và một người đàn ông lại được thể hiện qua dàn diễn viên không chuyên nghiệp.

Thu và Khoa thuở yêu nhau tại Việt Nam trước khi đi vượt biên

Trả lời câu hỏi “Tại sao  cô không mời diễn viên chuyên nghiệp mà lại giao cho những diễn viên nghiệp dư? Cô không sợ thất bại à?”, Thanh Tâm đáp không do dự: “Không! Vì tôi tin họ.” Cô nói tiếp:

“Họ có tố chất diễn viên, vì làm việc rất nghiêm túc và có trách nhiệm. Họ thể hiện rất tốt vai trò của mình, và như anh thấy, không nhờ họ thì bộ phim làm sao có thể đoạt được nhiều giải thưởng như thế. (cười)”

Tôi nghĩ một trong những nguyên nhân khiến cô không mời diễn viên chuyên nghiệp, đó là kinh phí eo hẹp. Có thể còn một vài nguyên nhân khác, tuy nhiên, không ai mạo hiểm dùng diễn viên nghiệp dư để “đốt” con đường nghệ thuật của mình. Bộ phim đã thành công, và như thế quyết định của cô hoàn toàn đúng.

Một người bạn ở Canada đã xem bộ phim này nói với tôi rằng, anh thực sự xúc động khi xem phim. Bộ phim lôi cuốn nhờ cách dẵn dắt câu chuyện của đạo diễn Thanh Tâm. Sự đan xen những cảnh quay hiện tại và quá khứ làm cho người xem trăn trở và thương cảm cho từng nhân vật. Anh không nghĩ những diễn viên đó là nghiệp dư vì họ đã sống thực trong từng vai diễn được giao. Đó là tính cách của người nghệ sĩ chuyên nghiệp.

Phút giây cuối cùng của Khoa bên gia đình trước khi từ giã cõi đời

“Bóng Quá Khứ” là một bộ phim nên xem trong dịp 30 Tháng Tư và Tháng Di Sản của người Mỹ gốc Á và đảo Thái Bình Dương

Bộ phim xoay quanh cuộc đời của Thu, một cô gái Việt Nam mang nặng nỗi đau vượt biên, và một tình yêu không trọn vẹn. Đó là phần đời của một người mẹ miền Nam thương con theo cách riêng, sẵn sàng làm tất cả vì con. Đó cũng là một góc đời người vợ, thương yêu chồng con, chịu đựng, hy sinh vì gia đình.

Số phận ba người phụ nữ, với ba nhân cách của người phụ nữ Việt Nam, xoay quanh một người đàn ông mà họ hết lòng yêu thương, tạo cho bộ phim một chiều sâu về sự hy sinh, tính nhân ái, lòng trắc ẩn.

Số phận của họ, sau bao nhiêu năm ở hải ngoại, vẫn gắn chặt với nơi họ phải từ bỏ, gắn chặt với con tàu tan nát vì hải tặc. Đau thương sẽ theo ba người phụ nữ đến cuối đời, bởi số phận của họ đã gắn chặt với người mà họ yêu thương nhất.

Tôi xin phép bỏ ngỏ nội dung bộ phim ở đây để mời quý vị đến Viện bảo Tàng Di Sản Việt Nam (2002 N. Main St., Santa Ana, CA 92706) để tham dự buổi ra mắt và triển lãm Chứng Tích Quá Khứ – Di Sản Tương Lai, đồng thời xem “Bóng Quá Khứ” từ 13:00 đến 16:00 ngày Chủ Nhật, 1 Tháng Năm 2022.

“Bóng Quá Khứ” không chỉ của một gia đình cụ thể nào. Mỗi người đều có một quá khứ để ôn lại trong mỗi dịp 30 Tháng Tư, và trong Tháng Năm – Tháng Di Sản của người Mỹ gốc Á và đảo Thái Bình Dương.

Thả nến trên biển hồ tưởng niệm Thuyền Nhân đã bỏ mình trên đường tìm tự do

Trong lần trả lời báo chí hải ngoại, đạo diễn Thanh Tâm chia sẻ:

“Những nỗi đau của người Việt, đặc biệt là người phụ nữ Việt đã và đang bị thế giới lãng quên. Chúng ta đã có hàng nghìn trang sách, hình ảnh tài liệu về chiến tranh, di tản, vượt biển của người Việt Nam. Nhưng có bao nhiêu người thuộc thế hệ đi sau quan tâm tìm tòi học hỏi về giai đoạn lịch sử đau thương này?

Trong những tác phẩm điện ảnh từ trong nước, trong cộng đồng người Việt hải ngoại, rồi giới làm phim chuyên nghiệp nước ngoài, có bao nhiêu cuốn phim nói về thuyền nhân Việt Nam?

‘Bóng Quá Khứ’ (A Realm of Return), với nội dung xoay quanh một góc nhỏ trong số phận bất hạnh của người phụ nữ Việt Nam kéo dài hơn gần nửa thế kỷ sau cuộc chiến, tôi hy vọng nói lên phần nào những nỗi đau của người Việt, đặc biệt là người phụ nữ Việt đã và đang bị thế giới và chính thế hệ người Việt đi sau lãng quên. 

Thanh Tâm hy vọng “Bóng Quá Khứ” có thể góp một phần nhỏ của mình giúp người Việt lưu vong thuộc thế hệ đi sau, những người chưa từng biết đến chiến tranh, biết đến Cộng Sản, cũng như những người trẻ trong nước bị tẩy não, có thể biết được, hiểu được những đau thương, mất mát, nghiệt ngã của thế hệ đi trước, và hy vọng có thể từ đó tránh được những bi kịch tương tự cho quê hương, đất nước trong tương lai”.

Nguồn: Trường An – SGN

Nguyễn Đăng Quang

Bỏ Đảng – Nguyễn Đăng Quang

BỎ ĐẢNG

Nguyễn Đăng Quang

Nguồn : Internet

Thằng con trai 46 tuổi của tôi hồ hởi báo tin: “Nhà mình hôm nay có tin vui. Bố phải thông báo cho tất cả anh chị em nội ngoại và bạn bè thân thiết biết để mọi người mừng cho bố. Có lẽ bố phải mở tiệc chiêu đãi cả nhà để đánh dấu sự kiện này”. Nói đoạn, nó mở bì thư, trịnh trọng đọc quyết định của Quận ủy Cầu Giấy v/v xóa tên tôi khỏi danh sách đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) “do đã vi phạm quy định chuyển sinh hoạt Đảng”.

Tôi quyết định “thoái Đảng” (tức lẳng lặng bỏ Đảng, không chuyển sinh hoạt Đảng) từ giữa năm 2003 ngay sau khi nhận quyết định nghỉ hưu. Ngày 3/2/2020 này, tôi đã “thoái Đảng” được suýt soát 17 năm. Còn trong thực tế, xin tiết lộ điều “bí mật” sau đây:

Ngay khi còn đang phục vụ trong lực lượng vũ trang, tôi đã âm thầm “khai trừ Đảng khỏi lòng tôi” rồi. Tôi đã thực hiện điều này trong lặng lẽ, tức chỉ có tôi biết. Chính xác việc trên là từ khi nào, tôi không nhớ rõ, chỉ biết nó bắt đầu ngay sau khi nhận ra mình đặt lòng tin nhầm chỗ. Mãi sau này, khi chính thức “thoái Đảng”, tôi mới biết là đã có rất nhiều đảng viên ĐCSVN cũng hành động giống tôi, nghĩa là âm thầm “khai trừ Đảng trong lòng” khi còn tại chức, không đợi sau khi nghỉ hưu mới “thoái Đảng”.

Công bằng mà nói, lý tưởng cộng sản đã từng một thời là khao khát và ước vọng của biết bao thế hệ trẻ. Trong thập kỷ 1960’s và 1970’s, lý tưởng cộng sản đã thôi thúc hàng triệu thanh niên trai tráng, trong đó có tôi, tự nguyện viết đơn xin đứng trong hàng ngũ ĐCSVN.

Hồi tưởng lại, niềm tin vào lý tưởng cộng sản thật là trong sáng, nó đã không chỉ lay động trái tim tôi, mà còn sưởi ấm tâm hồn tôi. Chẳng thế mà Milovan Djilas (1911-1995) cố Chủ tịch Quốc Hội Liên bang Nam Tư, cố Uỷ viên BCT Đảng Cộng sản Liên bang Nam Tư, đã để lại một câu bất hủ cho hậu thế: “20 tuổi mà không theo cộng sản là không có trái tim. 40 tuổi mà không từ bỏ cộng sản là không có cái đầu”.

Vì thế, lòng tin vào lý tưởng cộng sản trong tôi phai nhạt dần, cho đến đầu thập niên 1990’s thì nguội lạnh và lịm tắt hẳn. Tôi thực sự đã mất hết lòng tin vào ĐCSVN, vào chủ thuyết Marx-Lenine, vào CNXH và CNCS, và cả vào cái gọi là “Đỉnh cao trí tuệ” nữa.

Tôi “thoái Đảng” vào thời điểm hiện tượng trên còn hãn hữu, nhưng đến nay nó đã trở nên phổ biến. Các đảng viên ĐCSVN, khi nhận quyết định nghỉ hưu, thường họ không chuyển giấy sinh hoạt cho các đảng bộ địa phương, mà lặng lẽ cất kỹ dưới đáy tủ như kỷ niệm của “một thời đáng quên”. Họ lặng lẽ, âm thầm thực hiện hành động đó, không ồn ào và công khai với bất cứ ai, trừ khi là bạn rất thân của nhau. Đến nay, đã bao nhiêu đảng viên cộng sản chọn cách này để “tạm biệt” Đảng, không một ai có thể biết chính xác, bởi Đảng giấu rất kỹ. Nhưng theo nhiều người dự đoán, con số này ước khoảng 45%! Số còn lại, mang tiếng là “vẫn yêu Đảng”, nhưng thực tế đa số họ đã “chán Đảng”, họ miễn cưỡng phải tiếp tục ở lại sinh hoạt vì nhiều lý do khác nhau, trong đó phải kể đến lý do hàng đầu là sợ liên lụy đến con cháu, tiếp đến là sợ ảnh hưởng đến “sổ hưu”, tức kế sinh nhai hàng ngày của họ.

Vậy phong trào “thoái Đảng” do đâu mà có? Từ kinh nghiệm của bản thân, tôi có thể khẳng định nó bắt đầu từ lòng tin (vào ĐCSVN) bị giảm sút, đến chỗ hồ nghi sự lãnh đạo của Đảng, và cuối cùng là mất sạch lòng tin vào Đảng. Thế là bệnh “chán Đảng”, như một hệ lụy tất yếu, nó xuất hiện trong sâu thẳm tâm can rất nhiều đảng viên. Bệnh “chán Đảng” nhanh chóng trở thành phong trào “thoái Đảng”. Căn bệnh này lây lan rất nhanh, song nó không gây nguy hiểm cho đất nước và xã hội, nhưng lại rất nguy hiểm cho đảng cầm quyền. Xét về khía cạnh luật pháp hay đạo đức, nó không vi phạm điều khoản nào trong mọi văn bản quy phạm pháp luật, vì vậy nó không thể bị quy kết là “có tội”. Lượng tích tụ lâu dần, từ ngày này qua tháng khác, sẽ biến thành chất. Đây là một quy luật tất yếu, không một ai có thể ngăn cản nổi.

***

Đến đây có thể có người đặt câu hỏi: Do đâu mà tôi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” một cách logic và biện chứng như vậy? Vâng, đơn giản từ chỗ giảm sút niềm tin, tới chỗ mất hết lòng tin vào ĐCSVN, rồi sớm vướng phải căn bệnh “chán Đảng” để cuối cùng đi đến quyết định “thoái Đảng”, trong vòng có vài năm! Trước khi trả lời câu hỏi trên, xin khẳng định ngay tôi chưa một lần bị kỷ luật về Đảng hoặc về chính quyền. Tôi quyết định “thoái Đảng” giữa năm 2003 sau khi nghỉ hưu là do nhiều nguyên nhân, nhưng trước hết là bởi 10 thực tế sau đây quyết định:

Một là: Nhà nước CHXHCN Việt Nam là nhà nước toàn trị, xã hội ta là xã hội chuyên chế, phi dân chủ. ĐCSVN đã độc đoán áp đặt vào Điều 4 Hiến pháp:“ĐCSVN là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Điều luật này chứng tỏ Đảng đã vô lý và ngang ngược bắt toàn xã hội chấp nhận ý chí của một thiểu số. Như vậy có phải là độc tài, phi dân chủ không? Đã thế, Đảng lại không chịu trách nhiệm với bất cứ quyết định nào về mặt pháp lý của mình. Không thể coi nhà nước ta là dân chủ được, chỉ có thể nói đó là xã hội toàn trị, phi dân chủ mà thôi. Ngày nàò còn chưa loại bỏ điều luật phi lý và phi pháp trên, ngày đó không thể nói là nhà nước và thể chế có dân chủ được. Thử hỏi có chính đảng nào trên thế giới này lại mặc định trong Hiến pháp nước mình sự độc quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội như ở Việt Nam ta?

Hai là: Trong bộ Luật Đất đai, một bộ luật thiết yếu đối với người dân Việt Nam, thay cho hình thức “Đa sở hữu đất đai” như vốn có từ trước khi ĐCSVN ra đời, Đảng đã vô lý áp đặt vào Điều 4 (lại Điều 4). bộ Luật này như sau: “Đất đai là sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”. Điều khoản tù mù và cực kỳ vô lý này là một tử huyệt của thể chế nước ta, đồng thời là nguyên nhân chủ yếu gây ra bất ổn xã hội. Nói vậy vì nó trực tiếp mở rộng đường cho các phe nhóm lợi ích “bán nước, hại dân” trong Đảng liên kết với 63 Bí thư Tỉnh ủy các địa phương trên toàn quốc tha hồ cướp đất của dân, nhất là ở các vùng thôn quê. Chừng nào Luật Đất đai còn duy trì điều khoản vô lý, phi tự nhiên này, chừng đó sẽ còn xảy ra những vụ như Thủ Thiêm, Lộc Hưng (Tp.HCM), Văn Giang (Hưng Yên), Dương Nội (Hà Nội), Đoàn Văn Vươn (Hải Phòng), Đặng Ngọc Viết (Thái Bình), Đặng Văn Hiến (Đắc Nông),v.v… Dù cho đã cố áp dụng và tìm mọi cách để ngăn chặn, ĐCSVN cũng bất lực, không thể chấm dứt tình trạng khiếu kiện ngút trời của dân oan khắp 3 miền đất nước do họ bị giải tỏa và cưỡng chế đất đai bất hợp pháp và vô tội vạ.

Ba là: Việt Nam không có Tam quyền phân lập nên không có Nhà nước pháp quyền. Đa số các quốc gia trên thế giới ngày nay đều áp dụng mô hình tam quyền phân lập. Ba nhánh quyền lực, gồm Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp hoàn toàn độc lập, không phụ thuộc nhau, kiểm soát và hạn chế quyền lực của nhau nhằm thực thi nguyên tắc phân quyền giữa các thiết chế trên trong một nhà nước pháp quyền. Không một ai hoặc một định chế nào, kể cả Tổng thống hoặc chính đảng cầm quyền, có thể đứng trên 3 thiết chế này. Trên và cao hơn họ chỉ có thể là Hiến pháp. Đây là một phát kiến của nhân loại chứ không phải là sản phẩm của riêng giai cấp nào. Còn ở Việt Nam, trên và cao hơn họ trong suốt 75 năm qua không phải là Hiến pháp, mà duy nhất chỉ có ĐCSVN ngự trị. Nếu “rule of law” là pháp quyền và “rule by law” là pháp trị (pháp quyền là sự cai trị của pháp luật, còn pháp trị là sự cai trị bằng pháp luật) thì mô hình nhà nước ta là mô hình Nhà nước Đảng trị. Khác với đa số các quốc gia trên thế giới, ĐCSVN quản lý và cai tri đất nước bằng luật lệ riêng của mình. Như vậy, rõ ràng nước ta là Nhà nước Đảng trị. Ngày nào ta còn duy trì hệ thống pháp luật lạc lõng này, ngày đó sẽ còn xảy ra nhiều bất công pháp lý cũng như vô vàn vụ án oan sai tày đình.

(P/S: Đơn cử, trong vụ Đồng Tâm mới đây nhất, lẽ ra VKSNDTC khi phát hiện thấy BCA có dấu hiệu vi phạm pháp luật (nửa đêm giữa thời bình, BCA ngang nhiên điều động hàng ngàn CSCĐ xâm nhập bất hợp pháp cộng đồng dân cư và nhà riêng công dân, nổ súng giết hại cụ ông Lê Đình Kình, 84 tuổi đời, 58 tuổi đảng ngay tại nhà riêng, cướp và mang đi nhiều tài sản cùng nhiều hồ sơ, tài liệu quý của gia đình, bắt mang đi gần 30 người dân Đồng Tâm,v.v…) thì họ phải chủ động khởi tố vụ án hình sự để điều tra, xác định nguyên nhân và động cơ việc giết hại cụ Kình và gián tiếp làm 3 CSCĐ “hy sinh”, mà không phải “chờ lệnh” hay “được phép” của Bộ Chính trị hoặc Ban Bí thư Trung ương ĐCSVN! Nhận thấy có việc vi phạm cực kỳ nghiêm trọng pháp luật VN, sáng 21/01/2020 vừa qua, 12 người chúng tôi có “Đơn Tố giác” tội phạm và đã chuyển trực tiếp cho VKSND Tp. Hà Nội và Cơ quan CSĐT Công an Tp. Hà Nội về vụ việc nói trên. Điều 146 Bộ luật TTHS 2015 quy định, trong phạm vi 03 ngày làm việc, chúng tôi phải được báo cho biết kết quả thụ lý đơn tố giác nói trên của chúng tôi. Nhưng đến nay đã quá thời hạn trên, nhưng chúng tôi chưa nhận được hồi âm nào của 2 cơ quan tư pháp có trách nhiệm tiến hành công tác tố tụng. Liệu tất cả có rơi vào im lặng?)

Bốn là: Thực trạng tham nhũng ở nước ta rất khủng khiếp. Bản chất thể chế chính trị của ta là sinh ra tham nhũng, ngược lại, bọn tham nhũng ra sức bảo vệ cho cơ chế đã sinh ra chúng tồn tại. Đảng chỉ giỏi chống tham nhũng trên giấy, và chỉ chống tham nhũng bằng các nghị quyết sáo rỗng. Càng hô hào chống tham nhũng, thì tham nhũng càng lớn mạnh. Trong suốt 30 năm qua, ĐCSVN chỉ giỏi nói mồm, giỏi tuyên truyền, kêu gọi “toàn Đảng, toàn dân” diệt trừ tham nhũng. Tưởng rằng tham nhũng sẽ sớm “toi đời”, nhưng chẳng hiểu sao, cứ sau mỗi kỳ Đại hội Đảng, tệ nạn này lại càng sống khỏe. Từ chỗ chỉ là một vài con sâu đơn lẻ, chúng đã sớm trở thành một bầy sâu, và nay đã lớn mạnh thành những tập đoàn sâu, chúng ăn của dân “không chừa một thứ gì” thì hỏi làm sao không “chết cái đất nước này”?. ĐCSVN ngày nay đang tha hóa, biến chất và suy thoái toàn diện. Có thể khẳng định,100% các “con sâu cỡ bự” này đều là đảng viên cao cấp của ĐCSVN. Người viết bài này xin nói thật điều sau đây: “ĐCSVN sẽ khó tránh khỏi số phận sụp đổ như các ĐCS ở các nước XHCN Đông Âu và Liên Xô trước đây. Lý do duy nhất là nó đã và đang dung dưỡng cả một bầy sâu bọ tham nhũng trong lục phủ ngũ tạng của mình”! Vâng, câu “Sư tử thân trung trùng thực sư tử nhục” là rất nhỡn tiền, bởi đây là quy luật hoàn toàn tự nhiên và khách quan.

Năm là: ĐCSVN đã cầm quyền 75 được năm nhưng chưa hề có một cơ chế kiểm soát quyền lực nào thực sự hữu hiệu. Một trong các cơ chế kiểm soát quyền lực là UBKT các cấp, nhưng đó chỉ là công cụ riêng của Đảng. Vừa qua, UBKTTƯ đã làm được một số việc hợp với lòng dân, như đưa ra xét xử một số vụ án, trong đó có 2 bị cáo nguyên là Bộ trưởng và UVTƯ Đảng: Một bị tuyên chung thân, người kia bị tuyên 14 năm tù giam,v.v… Song các vụ trên chắc chắn sẽ được kịp thời ngăn chặn một khi UBKTTƯ do Đại hội Đảng bầu trực tiếp, chứ không phải do BCHTƯ (thực chất là do TBT, BCT) chỉ định. Vì vậy, UBKTTƯ xưa nay chỉ được làm những vụ việc mà TBT và BCT đã gật đầu. Nếu UBKTTƯ được Đại hội Đảng bầu ra, mà không phải do TBT và BCT chỉ định, thì sẽ hoàn toàn khác. Các vụ lạm quyền, vi phạm pháp luật trắng trợn như Thủ Thiêm, Mobiphone mua AVG, Bauxite Tây Nguyên, Vinashine, Vinaline, Formosa, Gang thép Thái Nguyên, v.v… chắc chắn sẽ không thể xẩy ra, hoặc nếu có xảy ra thì sẽ bị ngăn chặn sớm.

Sáu là: Tệ nạn “mua quan, bán tước” và “chạy chức, chạy quyền” đã và đang hoành hành trong các cơ quan công quyền nước ta trong suốt nửa thế kỷ qua, làm hư hỏng biết bao cán bộ, đảng viên của Đảng và Nhà nước, hết thế hệ này sang thế hệ khác. Có người hỏi tôi: “Thế ĐCSVN có biết hiện tượng trên là rất nguy hại không?”. Tôi đáp: “Có, Đảng không chỉ biết mà còn biết rất rõ, nhưng Đảng đã làm cố ngơ và che đậy những hiện tượng này!” Mãi đến gần đây, ngày 23/9/2019, ĐCSVN mới ban hành một văn bản, gọi là Quy định 205-QĐ/TƯ có tên là “Chống chạy chức, chạy quyền” nhằm ngăn chặn tệ nạn trên, nhưng đã quá muộn, mọi sự đã đâu vào đấy cả rồi. Người bán thì đã “mất tăm”, còn người mua thì sẽ phải giữ im lặng để tìm cách “thu hồi vốn” và “kiếm chút lãi”. Chỉ dân lành ở giữa là nạn nhân hứng chịu mọi hậu quả.

Bảy là: Việt Nam còn hạn chế quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí. Chừng nào trong Luật Báo chí của ta còn chưa cho phép tư nhân được quyền ra báo riêng, chừng đó không thể nói là có tự do báo chí và tự do ngôn luận. Điều 25 Hiến pháp 2013 quy định: “Công dân Việt Nam có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội và biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Người dân phải có quyền tự do biểu đạt chính kiến, tự do lập hội và biểu tình. Nhà nước ta còn nợ người dân 2 bộ luật mà Hiến pháp1946 đã cam kết là luật Biểu tình và Lập hội. Nếu quá bức xúc về vấn đề xã hội nào đó, người dân buộc phải xuống đường biểu tình, sẽ bị cơ quan chức năng vu là “tụ tập đông người” hoặc “gây rối trật tự công cộng” để có lý do trấn áp. Đảng khất lần quá lâu, đến nay 3/4 thế kỷ đã trôi qua mà chưa đệ trình Quốc Hội ban hành 2 bộ luật trên để người dân thực hiện quyền hiến định của mình.

Tám là: Có lẽ ai cũng biết Giáo dục và Y tế xưa nay là 2 lĩnh vực quan trọng, rất thiết thân đến xã hội và mọi gia đình người dân, nhưng Đảng đã tỏ ra ảo tưởng hão huyền. Ngay từ sau ĐH III (đầu thập kỷ 60’s), Đảng đã khẳng định như đinh đóng cột: Giáo dục và Y tế thể hiện tính “Ưu việt của CNXH là học sinh đi học, gia đình không phải trả tiền; và người dân được chữa bệnh miễn phí!”. Ngày nay, trường học và bệnh viện chính là 2 nơi người dân phải mất tiền nhiều nhất. Không chỉ vậy, 2 lĩnh vực này đã và đang xuống cấp trầm trọng về cả chuyên môn lẫn đạo đức. Về giáo dục, vụ án “Gian lận thi cử” xảy ra ở 3 tỉnh Hà Giang, Sơn La và Hòa Bình năm học 2018-2019 vừa qua là một ví dụ điển hình. Ngành y tế cũng cũng vướng vào nhiều vụ án kinh hoàng không kém: Công ty dược VN Pharma buôn lậu thuốc chữa ung thư giả, nhiều trẻ sơ sinh tử vong bất thường tại một số Bệnh viện,v.v… Và mới đây nhất, lãnh đạo Khoa Vi sinh (Bệnh viện Xanh Pôn, Hà Nội) đã gian dối lệnh cho nhân viên cắt đôi que thử HIV và viêm gan B, làm chấn động dư luận Hà Nội và cả nước.

Chín là: ĐCSVN ngày nay không còn là một khối đoàn kết vững chắc như xưa. Đảng đã không coi trọng và bảo vệ sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng như con ngươi của mắt mình nữa! Từ sau Đại hội IV đến nay, nội bộ Đảng đã rạn nứt và chia năm xẻ bảy, hình thành nhiều phe phái khác nhau. Việc TBT Nguyễn Phú Trọng suýt bật khóc trước ống kính truyền hình của VTV1 khi đọc diễn văn bế mạc HNTƯ lần thứ 6 (Khóa XI) vì không kỷ luật nổi “đồng chí X” (Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng), đã nói lên khá đầy đủ tình trạng chia rẽ trầm trọng trong Đảng hiện nay. Tóm lại, nội bộ ĐCSVN đang hình thành các phe nhóm lợi ích khác nhau, các phe nhóm này chỉ lo đấu đá, tranh đoạt lợi ích và quyền lực với nhau, bỏ mặc quyền lợi đất nước và lợi ích dân tộc. Họ có thể chia rẽ và mâu thuẫn nhau trong nhiều vấn đề, song có một vấn đề mà họ luôn thống nhất với nhau, đó là đặt lợi ích của Đảng và giai cấp vô sản lên trên hết! Đây phải chăng là điềm gở, rất gở báo hiệu một tương lai ảm đạm cho số phận ĐCSVN?

Mười là: Về đối ngoại, ĐCSVN đã và đang lệ thuộc mọi mặt vào ĐCSTQ, nhất là từ khi 2 đảng bí mật đi đêm với nhau để ký Mật ước Thành Đô (4/9/1990). Kể từ đó, ĐCSVN đã lệ thuộc gần như hoàn toàn vào ĐCSTQ. Lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên UVTƯ Đảng (1960-1976), là người rất am tường về TQ vì đã có 13 năm liên tục (1974-1987) làm Đại sứ Đặc mệnh Toàn quyền VN tại TQ, vừa từ trần ngày 26/12/2019, hưởng thọ 104 tuổi, đã vạch trần ĐCSVN hiện nay trở nên biến chất và hư hỏng, không còn xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội nữa! Trong các hư hỏng của ĐCSVN mà cụ đề cập, xin được trích dẫn nguyên văn lời cụ như sau: ”Ba là: ĐCSVN ngày nay đã lệ thuộc nặng nề vào ngoại bang, cụ thể là vào ĐCSTQ. Sau khi ký kết Mật ước Thành Đô (9/1990) với ĐCSTQ, Ban lãnh đạo ĐCSVN kể từ đó đã lệ thuộc gần như mọi mặt vào ĐCSTQ. ĐCSVN làm ngơ, không dám ra tuyên bố phản đối và thực hiện biện pháp đáp trả khi chủ quyền biển đảo của Tổ quốc bị bọn TQ xâm phạm, đặc biệt là sự kiện từ đầu tháng 5/2014 đến giữa tháng 7/2014, khi TQ ngang ngược coi thường luật pháp quốc tế và chủ quyền quốc gia của Việt Nam, chúng hạ đặt trái phép dàn khoan HD.981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, Mới đây nhất, Việt Nam phải nhẫn nhục đầu hàng, chấp nhận yêu sách phi lý của TQ đòi VN phải ngừng Dự án khoan thăm dò khí đốt với Tập đoàn dầu khí Tây Ban Nha tại Lô 136/03 thuộc bãi Tư Chính nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.”(Trích bài “Lão tướng NTV lên tiếng về quyết định của Gs.TL). Còn gần đây nhất, kể từ đầu 7/2019 cho đến giữa 10/2019, TQ đã điều tầu thăm dò địa chấn HD.08 cùng hàng chục tầu chiến vào bên trong thềm lục địa nước ta để khảo sát và quần thảo ở bãi Tư Chính, ĐCSVN đã không hề ra tuyên bố lên án hoặc tố cáo TQ. Không chỉ vậy, ĐCSVN tìm mọi cách ngăn cản các nỗ lực của giới nhân sỹ trí thức và người dân đòi kiện TQ ra trước Tòa án Trọng tài quốc tế như Phippines đã làm năm 2016. Vậy xin hỏi, ĐCSVN có đặt lợi ích dân tộc và quyền lợi quốc gia lên tối thượng không? Và như vậy có xứng đáng với vai trò là người lãnh đạo Nhà nước và dẫn dắt xã hội nữa hay không?

***

Đôi điều bộc bạch nói trên là rất thật của người viết bài này. Những đều trên đã hằn sâu trong suy nghĩ và tâm tư của tôi mấy chục năm qua, ít ra là từ sau năm 1990 đến nay, 30 năm trước khi tôi nhận quyết định xóa tên nói trên. Xin cảm ơn quý độc giả đã kiên trì đọc những dòng tâm tình gan ruột trên đây của tôi, mặc dù có đôi chút giông dài, mong được lượng thứ!

Hà Nội, ngày 3/2/2020.

N.Đ.Q

Vá cờ

Vá Cờ (Tùy Bút: Trần Khải Thanh Thủy)

Vá cờ (tùy bút: Trần Khải Thanh Thủy)

Vá Cờ (Tùy Bút – Trần Khải Thanh Thủy)

* NguồnTrang mạng Việt Phố (http://vietpho.org)

Huế, Phú Vân Lâu, ngày chiếm lại
Dựng cờ vàng ngạo nghễ khoảng trời xanh
Anh hy sinh, thân cờ in vết đạn 
Em vá cờ, em vá mảnh giang san…
Nguyễn Thị Xuân Lộc

Tôi chưa từng đọc thơ chị, cho dù lên Google đánh đầy đủ tên họ chị cũng không thấy thơ chị xuất hiện. Chỉ đến khi bập vào bài thơ này trong ngày gây quỹ yểm trợ cho các nhà dân chủ quốc nội tại San Diego, lập tức tôi rơi vào trạng thái choáng váng, ngây ngất như người say sóng, đi không thật vững, bước không thật chân, cứ bập bềnh, thực ảo vì tứ thơ lan tỏa trong đầu. Chỉ bốn câu mà làm sống dậy cả không gian, thời gian, địa điểm và không khí khốc liệt của chiến dịch Mậu Thân 1968:

Huế, Phú Vân Lâu, ngày chiếm lại
Dựng cờ vàng ngạo nghễ khoảng trời xanh

Khi đó thế sự diễn ra ác liệt, ngay trong đêm 30 Tết, lợi dụng không khí đón xuân tưng bừng náo nhiệt, cũng là tin vào lệnh ngưng chiến nhân ngày Tết cổ truyền của toàn thể bà con và quân đội Việt Nam Cộng Hòa, bộ đội Bắc Việt đã đột nhập vào đại nội Huế, đồng loạt bắn phá các mục tiêu rồi treo cờ máu lên… Suốt 25 ngày trong thế gò lì căng thẳng, tranh nhau từng ngôi nhà, mảnh đất, từng cây cầu, phố xá, chiều 24/2 Huế, Phú Vân Lâu được lấy lại. Một trung sĩ quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã làm một việc đầy ý nghĩa, báo hiệu sự chiến thắng, đó là dựng lại lá cờ vàng ba sọc đỏ thay cho cờ của cái gọi là Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam (hai nửa xanh và đỏ có sao vàng ở giữa). Bị Việt cộng bất ngờ pháo kích, anh lặng lẽ hy sinh, lá cờ do anh cầm cũng lập tức ngã theo, lỗ chỗ vết đạn. Vợ anh, sau nỗi đau khôn tả, vật vã khóc than vì thương chồng, thương thân, cố giấu niềm đau, nỗi uất nghẹn vào lòng, ngồi vá lại lá cờ bị thủng, rách, gửi thương nhớ theo từng mũi chỉ, đường kim.

Bài thơ dung dị nhưng có điểm tỏa sáng ở mỗi câu chữ, thấp thoáng nỗi xót xa chuyện đời, chuyện tình của người góa phụ mất chồng , nhưng không mất niềm tin với vận mệnh dân tộc thông qua việc vá cờ.

Chỉ bằng bốn câu thơ minh họa cho bức tranh của nhiếp ảnh gia Nguyễn Ngọc Hạnh, song bài thơ đã được mọi người chú ý, vì những câu thơ giàu biểu tượng, có sức khái quát cao, dễ găm sâu vào lòng người đọc, người nghe, người xem những tình cảm ngậm ngùi, trân trọng, cao quý, thiêng liêng. Hình ảnh ngạo nghễ của lá cờ giữa khoảng trời xanh quê hương, khi khói lửa chưa tàn, đã in đậm trong trí óc người xem nhờ chiều sâu tâm huyết của tâm hồn tác giả. Trong khúc ngoặt của lịch sử, cũng là trước bờ vực của sự tồn vong, trước máu xương của 44 nghìn bà con đã đổ trong đại nội Huế, chị lặng lẽ viết hai câu kết:

Anh hy sinh, thân cờ in vết đạn 
Em vá cờ, em vá mảnh giang san

Bài thơ nhờ thế đã neo đậu trong bến bờ tâm cảm của người đọc mà không phải bất cứ người làm thơ nào cũng may mắn có được. Tuy chẳng có phép thuật gì khi gieo vần, chọn chữ, tìm ý tứ, hình ảnh, chi tiết nhưng nhờ bức ảnh sống động, những câu thơ bỗng lung linh lạ thường, như thể tâm hồn chị đã đạt đến sự xúc cảm mãnh liệt, một tâm hồn thực sự nhạy cảm, non tơ, biết rung động mạnh mẽ trước hình ảnh sống động thiêng thiêng là vá lại lá cờ của Tổ Quốc, vốn có từ thời Bà Triệu (năm Mậu Thìn 248). Gần hai nghìn năm trước, hình ảnh Bà Triệu “Đầu voi phất ngọn cờ vàng” thì cũng gần hai nghìn năm sau, hình ảnh người lính Việt Nam Cộng Hòa: “Dựng cờ vàng ngạo nghễ khoảng trời xanh”. Tuy là hai động tác khác nhau: “Dựng” và “Phất” nhưng khí phách hiên ngang, oai hùng là sự kế thừa, tiếp nối từ ngàn xưa đến mai sau. Máu anh hùng đã đổ, Bà Triệu tuẫn tiết trên núi Tùng (xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa), còn anh trung sĩ ngã xuống ngay dưới chân cột cờ (Huế), nhưng sắc cờ vàng ba sọc đỏ, biểu tượng của lòng yêu nước của cả dân tộc Việt Nam thì còn tồn tại mãi mãi.

Người góa phụ vá cờ, song trong con mắt nhà thơ, hình ảnh ấy còn mang một sự so sánh, liên tưởng rộng hơn: “Vá mảnh giang san”, bởi giang san khi ấy đang chan chứa đôi hàng lệ. Không những bị ngăn cách bởi vĩ tuyến 17 ngày và đêm, trên nhịp cầu Hiền Lương, nơi bờ sông Bến Hải, mà còn cả nỗi đau xác thực là hàng chục hố chôn tập thể của đồng bào bị Việt Cộng tàn sát pháo kích, qua lời kêu gọi hiếu chiến, hiếu sát của tội đồ Hồ Chí Minh, đến nỗi cả triệu triệu nén hương thắp lên trong đêm cùng gục đầu thổn thức.

Xuân này thê thảm lắm xuân ơi
Máu đổ, xương tan khắp mọi nhà
Dân chúng thay nhau vùi thân xác
Tang thương tràn ngập Huế của ta.

Bài thơ là một tổng thể hoàn chỉnh, mỗi câu thơ là một sự khai triển, kết nối và bung tỏa, làm lay động trái tim người nghệ sĩ (nhiếp ảnh gia Nguyễn Ngọc Hạnh) cùng cả nghìn, vạn, triệu con tim người xem tranh. Điều tác giả muốn làm rõ ngoài nội dung bức ảnh còn là một thông điệp khẩn đến thế hệ mai sau: Đường đến độc lập tự do đầy máu và nước mắt, nhưng hạnh phúc mai sau đã bắt đầu từ trong chính việc làm dung dị mà cao cả, thiêng liêng này.

Thời nào cũng vậy, thơ muốn bay cao, muốn có tầm vóc thì phải có đôi cánh tư tưởng đập nhịp nhàng với luồng gió thời đại. Chính vì đạt tới điều này mà bài thơ có sức lan tỏa sâu rộng trong lòng bạn đọc, dù bất kỳ đối tượng nào… Chỉ cần bập vào bốn câu thơ của chị đề trang trọng dưới bức tranh thiêng là có thể nhớ ngay được, để lúc vui, lúc buồn có dịp ngâm ngợi, lẩm nhẩm đọc lại, vừa để gửi gắm tâm hồn mình, vừa để giãi bày nỗi lòng, tình cảm với tác giả bài thơ về một thời hào hùng, lửa cháy, có đau thương uất hận, có chiến thắng oai hùng.

Nhờ bức ảnh sống động, thơ của chị có sức vượt thời gian, cũng như nhờ những câu thơ dung dị, lung linh huyền ảo mà bức ảnh sống mãi trong lòng người Việt Hải Ngoại. Giữa người chụp ảnh và người làm thơ có sự hài hòa, bổ xung, nâng cao nhau trong cuộc sống cũng như trong nghệ thuật. Cả hai đã đem tới cho người xem, người đọc một khát vọng giải phóng dân tộc từ bầu máu nóng của người trung sĩ đã ngã xuống năm nào… Gia tài anh để lại là trái tim không tắt trên nền cờ Tổ Quốc, cũng chính là lá cờ đã bọc thi hài anh, được người vợ nâng niu vá lại để chờ ngày rửa nhục cho nhà, rửa hờn cho nước, trùm tự do, dân chủ, độc lập xuống ba miền, khi chế độ cộng sản hoàn toàn sụp đổ.

Nếu không nhìn lại

Nếu không nhìn lại, mình sẽ mất quá khứ và tương lai

Nếu không nhìn lại, mình sẽ mất quá khứ và tương lai

Tác giả : Châu Hiển Lý (Bộ đội tập kết 1954).

Đã hơn 3 thập kỷ trôi qua, làm ăn cực nhọc là thế, thành tựu không thể nói là nhỏ, thế mà khoảng cách phát triển của VN so với thế giới sao vẫn xa vời!  Không định thần nhìn nhận lại tất cả, không khéo chúng ta sẽ ngày càng đi sâu vào con đường đi làm thuê, đất nước có nguy cơ trở thành đất nước cho thuê với triển vọng là bãi thải công nghiệp của các quốc gia khác (!) giữa lúc thế giới đang bước vào thời kỳ kinh tế trí thức !

150 năm đã trôi qua, nhưng bài học này còn nguyên vẹn. Đó là 80 năm nô lệ, 40 năm với 4 cuộc chiến tranh lớn (Pháp, Mỹ, Cam Bốt, Tàu) – trong đó 3 thế hệ liên tiếp gánh chịu những hy sinh khốc liệt, 43 năm xây dựng trong hòa bình với biết bao nhiêu lận đận, và hôm nay VN vẫn còn là một nước chậm tiến.

Thảm kịch của đảng cộng sản thực ra đã bắt đầu ngay từ ngày 30-4-1975. Sự bẽ bàng còn lớn hơn vinh quang chiến thắng. Hòa bình và thống nhất đã chỉ phơi bày một miền Bắc xã hội chủ nghĩa thua kém miền Nam, xô bồ và thối nát, về mọi mặt. “Tính hơn hẳn” của chủ nghĩa Mác-Lênin trở thành một trò cười. Sự tồi dở của nó được phơi bày rõ rệt cùng với sự nghèo khổ cùng cực của đồng bào miền Bắc.

Nhìn lại sau hơn nửa thế kỷ dưới chế độ CS, hàng loạt các câu hỏi được đặt ra :

  • Năm 1954 sau khi thắng Pháp, tại sao hơn 1 triệu người Bắc phải bỏ lại nhà cửa ruộng vườn di cư vào miền Nam?
  • Sau năm 1975 , tại sao dân miền Nam không ồ ạt di cư ra Bắc sinh sống để được hưởng những thành quả của CNXH mà chỉ thấy hàng triệu người Bắc lũ lượt kéo nhau vào Nam lập nghiệp ?
  • Tại sao sau khi được “giải phóng” khỏi gông cùm của Mỹ-Ngụy, hàng triệu người phải vượt biên tìm tự do trong cái chết gần kề, ngoài biển cả mênh mông ?
  • Tại sao nhân viên trong các phái đoàn CS đi công tác thường hay trốn lại ở các nước tư bản dưới hình thức tị nạn chính trị?
  • Tất cả những thành phần nêu trên, họ muốn trốn chạy cái gì?
  • Tại sao đàn ông của các nước tư bản Châu á có thể đến VN để chọn vợ như người ta đi mua một món hàng?
  • Tại sao Liên Xô và các nước Đông âu bị sụp đổ?
  • Tại sao lại có sự cách biệt một trời một vực giữa Đông Đức và Tây Đức, giữa Nam Hàn và Bắc Hàn ?
  • Tại sao nước ta ngày nay phải quay trở lại với kinh tế thị trường, phải đi làm “lao công” cho các nước tư bản ?
  • Tại sao các lãnh tụ CS lại gởi con đi du học tại các nước tư bản thù nghịch?

Hỏi tức là trả lời, người VN đã bỏ phiếu bằng chân từ bỏ một xã hội phi nhân tính. Mọi lý luận phản biện và tuyên truyền của nhà nước cộng sản đều trở thành vô nghĩa!

Sự thực đã quá hiển nhiên nhưng đảng cộng sản VN không thể công khai nhìn nhận. Họ không thể nhìn nhận là đã hy sinh 4 triệu sinh mệnh trong một cuộc chiến cho một sai lầm!  Nếu thế thì họ không còn tư cách gì để nắm chính quyền, ngay cả để hiện diện trong sinh hoạt quốc gia một cách bình thường.

Nhìn nhận một sai lầm kinh khủng như vậy đòi hỏi một lòng yêu nước, một tinh thần trách nhiệm và một sự lương thiện ở mức độ quá cao đối với những người lãnh đạo cộng sản. Hơn nữa, họ đã được đào tạo để chỉ biết có bài bản cộng sản, bỏ chủ nghĩa này họ chỉ là những con số không về kiến thức. Cũng phải nói là trong bản chất con người , ít ai chịu từ bỏ quyền lực khi đã nắm được.

Thế là sau cuộc cách mạng long trời lở đất với hơn 30 năm khói lửa, máu chảy thành sông, xương cao hơn núi, Cộng Sản Hà Nội lại phải đi theo những gì trước đây họ từng hô hào phá bỏ tiêu diệt. Từ ba dòng thác cách mạng chuyên chính vô sản, hy sinh hơn 4 triệu mạng người, đi lòng dòng gần nửa thế kỷ, Cộng Sản Hà Nội lại phải rập khuôn theo mô hình tư bản để tồn tại.

 Hiện tượng “Mửa ra rồi nuốt lại” này là một cái tát vào mặt các nhà tuyên giáo  trung ương CSVN.

Cách mạng cộng sản đã đưa ra những lí tưởng tuyệt vời nhất, cao cả nhất, đã thực hiện những hành động anh hùng vô song, đồng thời cũng gieo vào lòng người những ảo tưởng bền vững nhất. Nhưng thực tế chuyên chính vô sản đã diễn ra vô cùng bạo liệt, tàn khốc, chà đạp man rợ lên đạo lý, văn hóa và quyền con người ở tất cả các nước cộng sản nắm chính quyền. Sự dã man quỷ quyệt mánh lới và sự bất nhân khéo che đậy của Cộng sản chưa hề thấy trong lịch sử loài người.

Con người có thể sống trong nghèo nàn, thiếu thốn. Nhưng người ta không thể sống mà không nghĩ, không nói lên ý nghĩ của mình. Không có gì đau khổ hơn là buộc phải im lăng, không có sự đàn áp nào dã man hơn việc bắt người ta phải từ bỏ các tư tưởng của mình và “nhai lại” suy nghĩ của kẻ khác.

Nền chuyên chính vô sản này làm tê liệt toàn bộ đời sống tinh thần của một dân tộc, làm tê liệt sự hoạt động tinh thần của nhiều thế hệ, làm nhiều thế hệ con người trở thành những con rối, những kẻ mù chỉ biết nhai như vẹt các nguyên lý bảo thủ giáo điều …

Công dân của nhà nước cộng sản luôn luôn sợ hãi, luôn luôn lo lắng không biết mình có làm gì sai để khỏi phải chứng minh rằng mình không phải là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội.

Cơ chế quyền lực cộng sản tạo ra những hình thức đàn áp tinh vi nhất và bóc lột dã man nhất. Vì vậy, công dân trong các hệ thống cộng sản hiểu ngay điều gì được phép làm, còn điều gì thì không. Không phải là luật pháp mà là quan hệ bất thành văn giữa chính quyền và thần dân của nó đã trở thành “phương hướng hành động” chung cho tất cả mọi người.

Cơ chế hiện nay đang tạo kẽ hở cho tham nhũng, vơ vét tiền của của Nhà nước. Nhưng cái mà chúng ta mất lớn nhất lại không phải là mất tiền, mất của, dù số tiền đó là hàng chục tỉ, hàng trăm tỉ. Cái lớn nhất bị mất, đó là suy đồi đạo đức. Chúng ta sống trong một xã hội mà chúng ta phải tự nói dối với nhau để sống !

Bác và đảng đã gần hoàn thành việc vô sản hóa và lưu manh hóa con người VN (vô sản lưu manh là lời của Lênin). Vô sản chuyên chính (đảng viên) thì chuyển sang làm tư bản đỏ, còn vô sản bình thường (người dân) trở thành lưu manh do thất nghiệp, nghèo đói.

Nền kinh tế Việt Nam bây giờ chủ yếu là dựa trên việc vơ vét tài nguyên quốc gia , bán rẻ sức lao động của công nhân và nông dân cho các tập đoàn kinh tế ngoại bang, vay nước ngoài do nhà nước CS làm trung gian.

Huyền thoại giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp do cộng sản Việt Nam dày công dàn dựng đã tan thành mây khói khi giai cấp “vô sản” âm thầm lột xác trở thành các nhà Tư bản đỏ đầy quyền lực và đô la.

Do vậy, lý thuyết CS dần dần mất đi tính quyến rũ hoang dại. Nó trở nên trần trụi và lai căng. Tất cả điều đó đã làm cho các ĐCS trên toàn thế giới dần dần chết đi. Dù GDP có tăng lên, nhiều công trình lớn được khánh thành do vay mượn quỹ tiền tệ Quốc Tế nhưng đạo đức xã hội cạn dần. Thực tế cho thấy rằng sức mạnh không nằm ở cơ bắp. Vũ khí, cảnh sát và hơi cay chỉ là muỗi mòng giữa bầu trời rộng lớn nếu như lòng dân đã hết niềm tin vào chính quyền.

Học thuyết về xây dựng một xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa chỉ là một loại lý tưởng hóa, nó là chiếc bánh vẽ để lừa gạt dân, không hơn không kém; đảng nói một đằng, làm một nẻo.

Chẳng hạn đảng nói “xây dựng xã hội không có bóc lột” thì chính những đảng viên lại là những người trực tiếp tham nhũng bóc lột người ; đảng nói ” một xã hội có nền dân chủ gấp triệu lần xã hội tư bản” thì chính xã hội ta đang mất dân chủ trầm trọng; đảng nói “đảng bao gồm những người tiên phong nhất, tiên tiến nhất” nhưng thực tế thì đảng đầy rẫy những người xấu xa nhất, đó là những kẻ đục khoét tiền bạc của nhân dân.

Sở dĩ ĐCSVN còn cố giương cao ngọn cờ XHCN đã bị thiêu rụi ở tất cả các nước sản sinh ra nó vì chúng đang còn nhờ vào miếng võ độc “vô sản chuyên chính” là… còng số 8, nhà tù và họng súng để tồn tại!

Nhân dân đang hy vọng rằng Đảng sớm tự ý thức về tội lỗi tầy trời của mình. Đảng sẽ phải thẳng thắn sám hối từ trong sâu thẳm chứ không chỉ thay đổi bề ngoài rồi lại tiếp tục ngụy biện, chắp vá một cách trơ trẻn.

Người dân chẳng còn một tí ti lòng tin vào bất cứ trò ma giáo nào mà chính phủ bé, chính phủ lớn, chính phủ gần, chính phủ xa đưa ra nữa. Họ nhìn vào ngôi nhà to tướng của ông chủ tịch xã, chú công an khu vực, bà thẩm phán, ông chánh án, bác hải quan, chị quản lý thị trường, kể cả các vị “đại biểu của dân” ở các cơ quan lập pháp “vừa đá bóng vừa thổi còi” mà kết luận: “Tất cả đều là lừa bịp!”

Do đó XHCN sẽ được đánh giá như một thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử VN. Con, cháu, chút, chít chúng ta nhắc lại nó như một thời kỳ… đồ đểu! vết nhơ muôn đời của nhân loại.

Một thời kỳ mà tâm trạng của người dân được thi sĩ cách mạng Bùi Minh Quốc tóm tắt qua 2 vần thơ:

“Quay mặt phía nào cũng phải ghìm cơn mửa!

Cả một thời đểu cáng đã lên ngôi!”

Chẳng lẽ tuổi thanh xuân của bao người con nước Việt dâng hiến cho cách mạng để cuối cùng phải chấp nhận một kết quả thảm thương như thế hay sao?

Chẳng lẽ máu của bao nhiêu người đổ xuống, vàng bạc tài sản của bao nhiêu kẻ hảo tâm đóng góp để cuối cùng tạo dựng nên một chính thể đê tiện và phi nhân như vậy? Tương lai nào sẽ dành cho dân tộc và đất nước Việt Nam nếu cái tốt phải nhường chỗ cho cái xấu?

Một xã hội mà cái xấu, cái ác nghênh ngang, công khai dương dương tự đắc trong khi cái tốt, cái thiện phải lẩn tránh, phải rút vào bóng tối thì dân tộc đó không thể có tương lai! Một kết cục đau buồn và đổ vỡ là điều không tránh khỏi.

Phạm Đoan Trang

Phạm Đoan Trang đã chiến thắng tuyệt đối tại tòa như thế nào?

Nguồn : Sài Gòn Nhỏ News

Luật sư Ngô Anh Tuấn

Ảnh: TTXVN

Không có tờ báo nhà nước nào ở Việt Nam dám miêu tả chính xác những gì diễn ra tại tòa trong phiên xử cô Phạm Đoan Trang. Tuy nhiên, biên bản tốc ký dưới đây của luật sư Ngô Anh Tuấn đã cho thấy nhiều chi tiết bật lên rõ sự can đảm kiêu hãnh đáng kính phục của cô Phạm Đoan Trang… 

BIÊN BẢN PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM

VỤ ÁN “TUYÊN TRUYỀN CHỐNG NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM” ĐỐI VỚI BÀ PHẠM THỊ ĐOAN TRANG (ngày 14 Tháng Mười Hai 2021)

Người ghi tốc ký tại phiên tòa: Luật sư Ngô Anh Tuấn

QUANG CẢNH CHUNG

– Phiên tòa được trang bị an ninh nghiêm ngặt từ nhiều vòng xung quanh tòa án;

– Mẹ bà Phạm Thị Đoan Trang được triệu tập tới tòa, được cho vào nhưng vì tuổi cao, sức yếu cần người đi cùng. Ông Phạm Chính Trực, con trai bà xin vào cùng nhưng không được chấp nhận. Các luật sư cùng nêu ý kiến, thư ký tòa và nhân viên tòa án rất có trách nhiệm nên cuối cùng mẹ bà Trang cũng qua được các “ải” an ninh để vào dự phiên tòa.

Mọi người tham dự phiên tòa đều được test covid tại chỗ rất nhanh chóng. Thủ tục an ninh nghiêm ngặt nhưng thái độ của những người làm việc có tiến bộ rõ rệt so với các phiên tòa tương tự trước đó. Phiên tòa có sự tham gia của nhiều y, bác sỹ của Bệnh viện Tim cùng xe cứu thương do bà Phạm Thị Đoan Trang có tiền sử bệnh tim. Phiên tòa có sự tham gia của các tùy viên chính trị, nhân viên ngoại giao của một số quốc gia như Mỹ, Canada, Đức, đại diện EU…

Thành phần Hội đồng xét xử: Ba người (đều là nữ):

Chủ tọa: Bà Chử Phương Ngọc

Hai Hội thẩm nhân dân: Bà Đỗ Thị Thái và Bùi Thị Thu Giang

Thư ký phiên tòa: Ông Hoàng Nghĩa Hải

Kiểm sát viên: Hai người là bà Lương Thị Hương và ông Đỗ Minh Tuấn

Luật sư: Năm người, gồm các luật sư: Phạm Lệ Quyên, Đặng Đình Mạnh, Nguyễn Văn Miếng, Lê Văn Luân và Ngô Anh Tuấn

Vắng mặt hai luật sư: Nguyễn Hà Luân và Trịnh Vĩnh Phúc

Người giám định: Vắng mặt

DIỄN BIẾN PHIÊN TÒA

KHAI MẠC PHIÊN TÒA (9h00)

Chủ tọa kiểm tra căn cước của bà Phạm Thị Đoan Trang

Chủ tọa đề nghị cảnh sát tư pháp tháo còng, bà Trang trả lời là không cần, cứ để im như vậy.

***

Chủ tọa hỏi: Bị cáo tên gì (giọng cứng):

Tôi tên Phạm Thị Đoan Trang, nguyên là nhà báo của báo VnExpress…

Chủ tọa: Bị cáo dừng lại, bị cáo trả lời từng câu hỏi của HĐXX (giọng cứng)

Tôi đề nghị chủ tọa giữ thái độ ôn hòa cần thiết

Chủ tọa: Hộ khẩu thường trú của bị cáo?

Tôi không trả lời

Chủ tọa: Trình độ văn hóa của bị cáo?

Tôi tốt nghiệp cử nhân kinh tế, Đại học Ngoại Thương Hà Nội

Chủ tọa: Tên bố mẹ của bị cáo?

Tôi không khai báo, ai làm người đó chịu

Chủ tọa đọc: Bị cáo đã có tiền án, tiền sự gì không?

Tôi không. Trong một số lần công an xử phạt, họ tự ý lập biên bản… Công an Việt Nam bắt giữ tôi 25 lần không có lý do chính đáng; trong một lần tôi bị đánh gãy chân

(Chủ tọa đọc một số tiền sự…)

Chủ tọa: Bị cáo bị bắt khi nào?

Tôi bị bắt vào ngày 6 Tháng Mười 2020 vào lúc 11h30 đêm

Chủ tọa: Bị cáo nhận được quyết định xét xử của tòa khi nào?

Tôi không nhận được. Tôi nghĩ có sự vi phạm tố tụng ở đây vì tôi không nhận được thông báo triệu tập của tòa ngày hôm nay

(Chủ tọa phổ biến nội quy phiên tòa cho bà Phạm Thị Đoan Trang)

Chủ tọa: Bị cáo hiểu rõ quyền và nghĩa vụ mình chưa?

Tôi nghĩ bà chủ tọa cũng nên hiểu quyền và nghĩa vụ của bị cáo

Chủ tọa: Bị cáo có cần thay đổi ai trong những người tiến hành tố tụng hay không?

Thôi không cần (sau khi liếc quanh một vòng)

Chủ tọa: Bị cáo có tiếp tục yêu cầu các luật sư tiếp tục bào chữa cho mình không?

Không

Chủ tọa: Bị cáo có xuất trình thêm tài liệu, chứng cứ gì thêm không?

Không

Chủ tọa: Các luật sư là những người am hiểu pháp luật nên tôi không cần phổ biến lại quyền và nghĩa vụ nữa. Các luật sư có ý kiến gì không?

Luật sư Đặng Đình Mạnh: Đề nghị tòa trả lời yêu cầu triệu tập giám định viên và lý do tại sao không tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử?

Luật sư Lê Văn Luân: Đề nghị giống luật sư Mạnh. Đề nghị triệu tập thêm: Hai người làm chứng là bà Lâm Thúy Hà và ông Trương Xuân Thành; hai người dịch thuật là bà Vũ Thị Thu Hà và ông Lương Hoài Nam; Đại diện Cục An ninh nội địa Bộ Công an; Điều tra viên Công an thành phố Hà Nội là ông Vũ Văn Bính và bà Phạm Thị Quỳnh Trang.

Chủ tọa: Đại diện Viện Kiểm sát có ý kiến gì không? Việc vắng mặt của những người được nhắc tới không làm ảnh hưởng tới nội dung phiên tòa nên đề nghị tòa tiếp tục xét xử.

Luật sư Lê Văn Luân có ý kiến bổ sung: Đề nghị tòa cấp giấy bút cho bà Trang ghi chép nội dung để tự bào chữa; đề nghị trang bị thiết bị điện tử để trình chiếu vì trong hồ sơ vụ án có một số tài liệu là dữ liệu điện tử.

(HĐXX vào hội ý, mọi người trong phòng xử án nghỉ giải lao: 9h20; HĐXX ra làm việc tiếp: 09h30)

Chủ tọa trả lời các thắc mắc của bà Phạm Thị Đoan Trang và các luật sư:

– Giải thích việc bà Trang không nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử: Bị cáo không nhận được quyết định mở phiên tòa trước 10 ngày nhưng các luật sư đã nhận được nên không ảnh hưởng tới quyền lợi của bị cáo;

– Đề nghị trang bị thiết bị điện tử: Do điều kiện cơ sở vật chất có hạn, tòa không trang bị được các thiết bị điện tử để phục vụ việc trình chiếu theo đề nghị, mong các luật sư thông cảm;

– Yêu cầu thư ký tòa cấp giấy bút cho bị cáo nhưng đề nghị cảnh sát tư pháp giám sát kỹ để đảm bảo an tòan và đề nghị thu hồi lại giấy bút sau khi kết thúc phiên tòa;

– Đề nghị triệu tập các giám định viên: Giám định viên đã vắng mặt có lý do chính đáng, nhưng sẽ triệu tập khi cần thiết;

– Đề nghị triệu tập điều tra viên: Không cần thiết vì họ chỉ làm theo chức trách, không liên quan tới vụ án;

– Đề nghị triệu tập người làm chứng: Đã có lời khai đầy đủ nhưng sẽ triệu tập khi cần thiết;

ĐẠI DIỆN VIỆN KIỂM SÁT ĐỌC BẢN CÁO TRẠNG (9h40)

Kiểm sát viên Lương Thị Hương:  Đọc bản cáo trạng (9h40)

Kiểm sát viên Đỗ Minh Tuấn: Đọc tiếp bản cáo trạng (10h01)

Luật sư Đặng Đình Mạnh giơ tay đứng dậy: Đề nghị đại diện Viện Kiểm sát tạm ngừng đọc, đề nghị tháo còng cho bà Trang và cho bà Trang ngồi xuống vì lý do sức khỏe bà không tốt. (10h04)

Chủ tọa: Yêu cầu luật sư Mạnh ngồi xuống.

(Bà Trang cũng rời bục khai báo về ghế ngồi)

Chủ tọa: Yêu cầu bà Trang đứng dậy.

Tôi đau chân không đứng mãi được

Chủ tọa: Đau chân thì phải xin HĐXX.

(Bà Trang được chấp thuận tiếp tục ngồi)

Kiểm sát viên Lương Thị Hương: Đọc tiếp bản cáo trạng (10h07)

Kiểm sát viên kết thúc đọc bản cáo trạng (10h15)

(HĐXX HỎI)

Chủ tọa nhắc với luật sư: Bị cáo đã từ chối tháo còng.

Chủ tọa cũng hỏi lại bà Trang: Bị cáo cần tháo còng không?

Tôi không cần tháo

(Chủ tọa cho bà Trang ngồi khai báo do lý do sức khỏe)

Chủ tọa: Cáo trạng truy tố bị cáo về tội gì?

Trong cáo trạng ghi rồi

Chủ tọa: Bị cáo trả lời HĐXX

Trong cáo trạng ghi rồi, không cần hỏi tôi nữa

Chủ tọa: Bị cáo có đồng ý với cáo trạng không?

Không có quốc gia nào quy định tội danh này, trừ Trung Quốc và Việt Nam

Chủ tọa: Ngày 17 Tháng Sáu 2020 bị cáo có làm việc với cơ quan công an không?

Tôi bị bắt cóc 25 lần, tôi không làm việc gì cả

Chủ tọa: Ngày 22 Tháng Sáu 2020, bị cáo có làm việc với cơ quan công an phường Hàng Bồ không?

Tôi bị bắt cóc 25 lần, tôi không làm việc gì cả…

Chủ tọa: Bị cáo bị giữ tài sản, đồ vật gì không?

Tôi bị thu giữ nhiều máy móc, tài sản, tiền bạc…

Chủ tọa: Bị cáo có bị thu giữ tài liệu gì không?

Có, nhưng tôi không ký biên bản gì

Chủ tọa: Trong các lần làm việc, có buổi làm việc nào có ghi âm, ghi hình không?

Những lần đánh tôi thì không ghi âm, ghi hình…

Chủ tọa: Bị cáo có tham gia các buổi phỏng vấn với BBC tiếng Việt không?

Tôi là nhà báo, tham gia phỏng vấn hàng nghìn người với hàng trăm tờ báo…

Chủ tọa: Bị cáo có tham gia phỏng vấn báo BBC Tiếng Việt ngày 19 Tháng Tám 2018 không?

Tôi không nhớ rõ

Chủ tọa: Bị cáo thường trả lời phỏng vấn của những tờ báo nào?

Rất nhiều tờ báo

Chủ tọa: Bị cáo có trả lời tờ báo RFA không?

Tôi trả lời nhiều tờ báo, không chỉ là RFA

Chủ tọa: Trong quá trình điều tra, các điều tra viên có thông báo cho bị cáo về các kết luận giám định không?

Tôi có được đọc cho nghe

Chủ tọa: Bị cáo đã từng ký, giao nộp tài liệu không?

Tôi không đưa tài liệu nào

Chủ tọa: Bị cáo nhớ lại có lần nào không?

Tôi không đưa gì cho công an cả, tất cả là cướp

Chủ tọa: Bị cáo có ý kiến gì về các kết luật giám định hay không?

Tôi nghĩ chỉ Việt Nam và Trung Quốc mới có giám định tư tưởng. Tôi không biết họ là ai, trình độ tới đâu mà đi giám định những tài liệu như vậy…

Chủ tọa: Bị cáo có quyền đồng ý hay không đồng ý nhưng không bình luận, phần này để dành qua phần tranh luận.

Tôi bật cười khi đọc kết luận giám định

ĐẠI DIỆN VIỆN KIỂM SÁT

Nội dung của ba tài liệu bằng tiếng Anh mà bị cáo bị thu giữ với mục đích gì?

Nền luật pháp Việt Nam có tồi tệ đi nữa nhưng tôi nghĩ, với những tài liệu, chứng cứ không được thu giữ hợp lệ, tôi tin nó cũng không thể là căn cứ để cáo buộc tôi hay bất kỳ ai. Những tài liệu mà cơ quan điều tra có được là bất hợp pháp và vô giá trị.

Bị cáo có ý kiến gì về kết luận giám định không?

Tôi nhận thấy có những thuật ngữ rất ngu xuẩn. Những từ ngữ kiểu như “Chiến tranh tâm lý” là không được phép có trong thuật ngữ pháp lý…

Chủ tọa nhắc: Bị cáo có quyền trả lời nhưng không có quyền đặt lại câu hỏi lại.

Tôi là nhà báo, tôi thấy nhiều cáo buộc là sai, ngu xuẩn

Kiểm sát viên: Bị cáo có làm ra ba tài liệu đó không?

Tôi không làm ra

Tài liệu thu giữ có chữ ký xác nhận của bà trên đầu trang, bà có xác nhận điều đó là thực không?

Nếu có chữ ký của tôi thì đó là của tôi

Chủ tọa nhắc nhở: Bị cáo xưng “tôi” hoặc “bị cáo”

Không, ngôn ngữ là do tôi kiểm soát, việc sử dụng thế nào là của tôi

Kiểm sát viên: Bị cáo đã đăng tải các tài liệu trên lên mạng xã hội đúng không?

Đúng. Có bài tôi đăng, có bài không. Không nhà báo nào nghĩ rằng khi phỏng vấn xong một nhà báo thì họ bị bắt cả

Động cơ của bị cáo khi phát biểu và đăng tải các thông tin lên mạng xã hội là gì?

Vậy tôi xin hỏi ngược lại, khi hỏi tôi, động cơ của bà là gì?

Chủ tọa đề nghị đại diện Viện kiểm sát dừng việc xét hỏi.

LUẬT SƯ HỎI

Luật sư Lê Văn Luân: Ngày 16 Tháng Mười Một 2017, ông Trương Xuân Thành có làm việc với bà không?

Tôi không biết đó là ai. Công an họ tự gọi vào…

Bà có nhận dạng được ông Thành không?

Không

Tài liệu mà bà ký ở trang đầu là tài liệu nào? Tài liệu đó là bà có được từ đâu?

Tài liệu đó là tôi tham dự cuộc họp của EU, có cái họ phát, có cái là tôi mua từ cuộc triển lãm trong cuộc họp

Các chữ ký trên các trang tài liệu của bà?

Tôi nghi ngờ công an ngụy tạo ra, không phải của tôi

Bà có yêu cầu giám định lại không?

Tôi biết cơ quan giám định Việt Nam nên có giám định lại cũng thế mà thôi

Luật sư Đặng Đình Mạnh: Bà có được điều tra viên thông báo kết luận giám định không?

Họ có đọc cho tôi trong trại tạm giam

Bà có yêu cầu gì về việc tiếp cận hồ sơ vụ án không?

Tôi có yêu cầu biết tên, tuổi, trình độ cũng những người giám định nhưng không ai cho tôi biết

Bà có yêu cầu đọc, xem tài liệu có trong hồ sơ vụ án không?

Không

Nếu được cho phép, bà có yêu cầu đó không?

Chắc không cần

Luật sư Nguyễn Văn Miếng: Khi bị bắt bà bị thu giữ gì không?

Bị bắt khi nào ạ?

Ngày 16 Tháng Mười 2020

23h30 tôi bị bắt đi lên phường rồi khi được đưa quay lại thì phòng trọ bị lục tan hoang nhưng không thu giữ tài liệu gì

Vậy những tài liệu bị thu giữ lấy từ đâu?

Tôi không rõ

Những tài liệu tiếng Anh bà dùng làm gì?

Những tài liệu này tôi không viết, không biết của ai, người dịch là của công an. Tôi dùng để tôi đọc chứ không phát tán, tuyên truyền cho ai. Người dịch và phổ biến chứ tôi không phổ biến

Bà có nghe hết cáo trạng không?

Tôi nghe không rõ và không quan tâm nhưng thấy có nhiều sai sót

Luật sư Ngô Anh Tuấn: Trong quá trình điều tra, bà có yêu cầu có luật sư không?

Trong suốt quá trình điều tra, tôi luôn khẩn thiết đề nghị nhưng không bao giờ được chấp nhận. Điều tra viên đưa ra lý do đây là vụ án liên quan tới an ninh quốc gia nên tôi không được quyền có luật sư. Mãi tới ngày 19 Tháng Mười 2021, khi vụ án sắp được đưa ra xét xử tôi mới được gặp luật sư lần đầu tiên

Trong quá trình điều tra bà có bị ép cung không?

Có. Trong nhiều lần bị bắt bớ trước đó, bị cáo bị đánh, ép ký văn bản nhưng không ký nên họ tự đưa người vào ký làm chứng

Việc ăn ở trong trại giam của bị cáo thế nào?

Sau khi có ý kiến của các luật sư thì trại giam đã đáp ứng một số yêu cầu thiết yếu của tôi với tinh thần hợp tác

Từ đầu tới giờ, bà nhiều lần chỉ trích nặng lời đối với nội dung của bản kết luận giám định, các luật sư cũng đề nghị tòa triệu tập giám định viên, chủ tọa cũng cho biết sẽ triệu tập khi cần thiết, vậy bà có thấy cần triệu tập họ tới phiên tòa này để tham gia xét hỏi hay không?

Những tài liệu không phải tôi làm ra, họ tự dịch thuật rồi tự phát tán rồi tự giám định, tôi không quan tâm lắm. Nếu họ tới để tranh luận thì tốt mà không tới cũng không sao cả

Luật sư Lê Văn Luân: Đề nghị HĐXX không tiếp tục trì hoãn mà cần xem xét các yêu cầu triệu tập của chúng tôi một lần nữa để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.

Đại diện Viện Kiểm sát: Đề nghị HĐXX công bố một số bút lục liên quan tới lời khai của bị cáo, người làm chứng có trong hồ sơ vụ án.

Chủ tọa phiên tòa công bố một số lời khai của bà Phạm Thị Đoan Trang tại bút lục 221, 222; công bố lời khai của người làm chứng Trương Xuân Thành tại bút lục 509, 510.

Đại diện Viện kiểm sát đề nghị tòa công bố bút lục số 265, 266 về lời khai của bị cáo Phạm Thị Đoan Trang. Kết thúc phần xét hỏi 11h20, chuyển sang phần tranh luận.

PHẦN TRANH LUẬN (11h20)

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm: Đề nghị HXX tuyên phạt bị cáo với mức án 7-8 năm tù về tội danh “Tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN Việt Nam”; trả lại một số tài sản đã thu giữ của bị cáo.

HĐXX tạm nghỉ buổi sáng lúc 11h30

PHIÊN TÒA BẮT ĐẦU LẠI (14h00)

Một nhân viên an ninh trước cổng tòa không cho ông Phạm Chính Trực, anh trai của bà Phạm Đoan Trang vào cùng mẹ vì giải thích ca sáng cho vào là việc của ca sáng, ca chiều không liên quan. Các luật sư đồng loạt đi ra ngoài cổng tòa để phản đối hành vi cứng nhắc này. Sau đó, thư ký tòa đề nghị luật sư đi vòng bằng cổng khác để vào tòa. Trên đường đi, chúng tôi gặp một số tùy viên chính trị của các đại sứ quán cũng đang đi lòng vòng vì chưa vào được. Họ cười với chúng tôi và lắc đầu ngao ngán. Khi chúng tôi vào được tòa, nhìn ra phía ngoài cổng, họ vẫn đang đứng ngoài…

CÁC LUẬT SƯ TRÌNH BÀY NỘI DUNG BÀO CHỮA

Luật sư Đặng Đình Mạnh

Về thủ tục tố tụng:

Các luật sư có yêu cầu triệu tập nhiều người có liên quan nhưng không có bất kỳ người nào có mặt tại tòa. Phía đại diện Viện Kiểm sát cho rằng việc họ vắng mặt không làm ảnh hưởng tới việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên, thực tế, việc vắng mặt của họ ảnh hưởng nghiêm trọng tới việc bào chữa của luật sư, điều này thể hiện sự bất bình đẳng trong việc buộc tội và gỡ tội đối với bị cáo.

Việc tiếp cận hồ sơ vụ án của bị can, bị cáo không được tôn trọng khi cơ quan tiến hành tố tụng không chấp nhận đề nghị của bị cáo.

Việc xung đột pháp luật: Điều 25 của Hiến pháp quy định quyền tự do ngôn luận của công dân nhưng Điều 88 của Bộ luật Hình sự 1999 lại đi ngược với tinh thần của Hiến pháp nhằm bắt bớ, xử lý người thực hiện quyền tự do ngôn luận của mình. Điều 88 Bộ luật hình sự 1999 cũng mâu thuẫn với Điều 19 của Công ước về Tuyên ngôn nhân quyền 1966 mà Việt Nam tham gia ký kết. Một khi có sự mâu thuẫn giữa luật quốc nội và điều ước quốc tế thì ưu tiên áp dụng điều ước quốc tế.

Giám định tư pháp: Không thể giám định về tư tưởng, quan điểm, nhận thức chính trị, pháp luật. Các nước trên thế giới cũng không thể thực hiện hình thức này. Những phương mà các giám định viên đã sử dụng để giám định là khá phi lý: Trên cơ sở pháp lý nào mà có thể kết luận những đoạn văn, câu văn nào là phao tin bịa đặt, gây hoang mang dư luận…?

Những yếu tố cấu thành tội phạm (khách thể bị xâm phạm):

Chính quyền nhân dân là một khái niệm mơ hồ, nó là thực thể nào? Nó là một tổ chức, một cá nhân hay một thứ nào khác?…

Kết luận: Tuyên bị cáo không phạm tội.

Đề nghị HĐXX kiến nghị hủy bỏ điều luật trái với Hiến pháp và trái điều ước quốc tế.

Luật sư Nguyễn Văn Miếng

Đồng tình với quan điểm của luật sư Mạnh. Quan điểm về bảy văn bản giám định và một công văn trả lời. Tám văn bản này đã kết tội bà Trang trước khi có phiên tòa này. Trong hồ sơ giám định kết luận có một số chữ ký trên hồ sơ không phải là chữ ký của bà Phạm Thị Đoan Trang. Hai clip được lưu giữ trong máy, cơ quan giám định cũng trả lời chưa phát tán nên không có cơ sở để giám định. 15 file tài liệu thu giữ cũng không được giám định nhưng vẫn đưa vào cáo trạng để kết tội bị cáo. Các tài liệu thu thập được trên mạng không được giám định trên bản tiếng Anh, không xác nhận nội dung của người viết ra mà giám định trên bản dịch theo chủ ý của cơ quan điều tra. Cách giám định này là không khách quan. Căn cứ vào Điều 25 của Hiến pháp và Điều 19 của Công ước quốc tế 1966 mà Việt Nam đã tham gia thì Điều 88 của Bộ luật hình sự 1999 là vi phạm những điều luật này.

Đề xuất: Tuyên thân chủ vô tội.

Luật sư Lê Văn Luân

Việc bảo vệ các nguyên tắc: Xét xử công bằng và tranh tụng.

Xét xử công bằng và tranh tụng: Một số vi phạm cơ bản không thể khắc phục. Việc triệu tập những người tham gia tố tụng đã không được thực hiện.

Quyền tự bào chữa và quyền bào chữa cho bị cáo: Quyền tự bào chữa của bị cáo không chỉ bị gián đoạn mà hoàn toàn bị che mờ. Quyền được tiếp cận hồ sơ của bị cáo không được chấp nhận.

Kết luận giám định, dựa trên pháp luật hiện hành đã vi phạm nghiêm trọng:

Thẩm quyền: Dùng cơ quan thông tin truyền thông thuộc UBND để kết luận an ninh thông tin là điều sai trái. Chức năng của cơ quan thông tin truyền thông là liên quan tới an toàn thông tin chứ không liên quan tới an ninh thông tin, việc giao cho họ quyền này là vượt quá khả năng của họ.

Địa phương hóa việc kết tội: Kết luận giám định được thực hiện bởi cơ quan chuyên môn cấp tỉnh.

Kết luận mặt khách quan của tội phạm: Kết luận mặt nội dung, kết luận luôn các yếu tố cấu thành tội phạm.

Trao quyền cho địa phương kết tội, bất kỳ Sở Thông tin Truyền thông nào cũng có quyền kết tội một người nào mà họ thích.

Cùng một cuốn sách “Cẩm nang nuôi tù” của bà Phạm Thị Đoan Trang được hai Sở Thông tin và Truyền thông của hai tỉnh khác nhau kết luận những nội dung khác biệt nhau (so sánh với vụ án của bà Cấn Thị Thêu tại tỉnh Hòa Bình).

Về chứng cứ: Vật chứng gốc của các USB không còn. Bản tiếng Anh được in ra trong USB hiện ở đâu? Tại sao không có trong hồ sơ vụ án? Một số tài liệu không kết luận được là chữ ký của bà Trang, vậy ai ký? Ai đã ký thay bà Trang? Đó là hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp, cần làm rõ.

Không xác định được nguồn của chứng cứ: Ba tài liệu tiếng Anh và một tài liệu tiếng Việt, không biết tài liệu tiếng Việt thu từ nguồn nào, ở đâu ra? Không xác định nguồn chứng cứ, không xác định được người tạo ra… Tôi đề nghị trình chiếu bản ghi hình buổi hỏi cung có ghi hình vào ngày 16 Tháng Mười Một 2017.

Người chứng kiến không có mặt trong ngày 16 Tháng Mười Một 2017. Bản khai của ông Trương Xuân Thành khai ở bút lục số 51 (có bản ghi hình 00812, 00813): Trong buổi làm việc 80 phút với bà Trang chỉ có bốn người, không có mặt ông Thành. Tại phút thứ 23 của bản ghi hình 00812, có người đàn ông nói “nếu bà không ký hồ sơ thì tôi sẽ mời người chứng kiến”, nghĩa là lúc này không có người chứng kiến, trái với lời khai của nhân chứng.

Ông Trương Xuân Thành khai là bà Trang đồng ý cho người chứng kiến ký nhưng tại phút thứ 36, bà Trang phủ nhận, không chấp nhận cho người làm chứng ký.

Buổi làm việc ngày 16 Tháng Mười Một 2017 bắt đầu từ 14h và kết thúc lúc 15h30 tại phường Cống Vị, tôi dùng ba hình ảnh chụp và cắt, trên đồng hồ của cán bộ tên Hương ghi thì thời gian chênh nhau là khoảng hai giờ, mâu thuẫn với bản làm việc. Như vậy, những bản ghi này vênh nhau, sai phạm lớn, không có giá trị làm chứng cứ. Ông Trương Xuân Thành khai có mặt toàn bộ buổi làm việc là gian dối và có thể bị khởi tố trách nhiệm hình sự về hành vi của mình, cần phải xử lý.

Đề nghị tuyên bà Trang không phạm tội. Đề nghị tòa xem xét trách nhiệm của những người gây ra những sai phạm này.

Luật sư Ngô Anh Tuấn

Việc cơ quan điều tra đã đưa ra yêu cầu trưng cầu giám định vượt quá khả năng, thẩm quyền của cơ quan thông tin truyền thông. Viện kiểm sát là cơ quan kiểm sát việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã không đảm bảo vai trò của mình, giờ là lúc cần xem xét lại.

Cần xem xét trách nhiệm của cơ quan điều tra, có hay không có sự ép buộc của cơ quan điều tra đối với Sở Thông tin Truyền thông để họ phải thực hiện công việc vượt ngoài khả năng và trách nhiệm của họ. Hơn thế nữa, cần xem xét kỹ việc họ không có mặt tại phiên tòa này và nhiều phiên tòa tương tự khác có phải là họ không muốn đối đáp và “minh oan” cho mình hay do một áp lực nào khác hay không?

Việc xem xét, đánh giá một hành vi có dấu hiệu tội phạm hay không là việc của cơ quan điều tra chứ không phải là cơ quan hành chính nào đó, càng không thể là trách nhiệm của cơ quan giám định vì họ chỉ làm công tác chuyên môn đơn thuần. Viện kiểm sát cần làm rõ khái niệm chính quyền nhân dân và nhân dân trong vụ án này để xác định rõ chủ thể bị hành vi vi phạm pháp luật (nếu có) xâm phạm tới quyền và lợi ích chính đáng của mình.

Bà Phạm Thị Đoan Trang bổ sung: Lời cung của người làm chứng Trương Xuân Thành cần phải kiểm chứng.

Chủ tọa: Bị cáo cần xưng tôi với HĐXX, và tôn trọng pháp luật.

Tôi tôn trọng các chị như những con người. Tôi là người nhìn thấy và cầm các tài liệu từ bàn hội nghị của EU nhưng tôi không làm ra, không phát tán. Việc phát tán là của cơ quan an ninh thực hiện, không phải tôi.

Trong 25 lần tôi bị bắt giữ trái pháp luật, nhiều lần tôi bị ép cung, mướn cung, dụ dỗ tôi khai báo thì những lời tôi nhận những tài liệu là do tôi làm ra thì đó là vô giá trị. Vụ án này kết tội tôi chủ yếu dựa trên lời khai của tôi và những người khác là vi phạm pháp luật, không dựa vào các chứng cứ khách quan khác có trong hồ sơ vụ án. Trong quá trình điều tra, tôi khai nhiều lời khai có lợi cho mình nhưng chưa một lần những lời khai đó được ghi nhận. Ngay cả việc tôi yêu cầu có luật sư cũng không được ghi nhận trong hồ sơ.

Tôi bị bắt và được thả nhiều lần nhưng chưa một lần được giải thích là bắt và thả là vì lý do gì, ngay cả việc tôi bị đánh gãy chân cũng không bao giờ được nhắc tới. Trong quá trình điều tra, một số điều tra viên đã đánh đập, ép cung tôi nhưng tôi không có chứng cứ để truy cứu vấn đề này.

ĐẠI DIỆN VIỆN KIỂM SÁT ĐỐI ĐÁP

Sáu nhóm vấn đề đối đáp:

– Không triệu tập các điều tra viên và những người làm chứng: Tòa đã giải thích, không đối đáp lại.

– Không có luật sư trong quá trình điều tra: Bị can bị khởi tố về tội liên quan tới an ninh quốc gia nên Viện Kiểm sát không cho luật sư tham gia trong quá trình điều tra là đúng.

– Khi tống đạt cáo trạng cho bị cáo, bị cáo không đề nghị tiếp cận tài liệu nên không có cơ sở để xem xét yêu cầu của bị cáo. Điều này bị cáo cũng xác nhận tại tòa rằng không có nhu cầu tiếp cận hồ sơ.

– Công tác giám định, thẩm quyền giám định: Việc dịch tiếng Anh sang tiếng Việt là đúng quy định. Cơ quan điều tra thực hiện việc dịch thuật là đúng, đủ thẩm quyền và trình độ để thực hiện. Việc dịch thuật là đúng, đủ, trung thực nên có căn cứ để làm chứng cứ.

– Thẩm quyền giám định: Đã có quyết định của cơ quan có thẩm quyền và được công bố công khai nội dung, danh sách trên Sở Tư pháp Hà Nội nên kết luận giám định là đúng pháp luật. Các tài liệu giám định khẳng định các chữ ký của bị cáo Trang có trên hồ sơ là đúng do bị cáo Trang ký.

– Về nội dung cáo trạng là đúng làm luật, có căn cứ và không oan. Đề nghị của các luật sư tuyên bị cáo không có tội là không có căn cứ pháp luật.

Kiểm sát viên Lương Thị Hương đối đáp thêm: Nguồn chứng cứ được thu thập từ các nguồn hợp pháp.

ĐỐI ĐÁP TIẾP

Bà Trang: Ngày 20 Tháng Mười 2021, có đề nghị tiếp cận chứng cứ, hồ sơ tài liệu và yêu cầu triệu tập điều tra viên, giám định viên và đề nghị cung cấp phương tiện để làm việc tại tòa nhưng không được chấp nhận. Việc Viện Kiểm sát nói tôi từ bỏ quyền của mình là không đúng. Hôm nay tôi từ chối tiếp cận là vì tôi đã đủ thất vọng với các vị nên không yêu cầu thêm làm gì nữa mà thôi. Nếu các anh, chị không dịch thuật tài liệu từ tiếng Anh sang tiếng Việt rồi rêu rao đó là vi phạm pháp luật, là phao tin bịa đặt gây hoang mang dư luận thì có ai biết không? Ai mượn, ai sai khiến quý vị đi dịch thuật, lan truyền rồi lại quy trách nhiệm cho tôi?

Luật sư Đặng Đình Mạnh: Việc có mặt của người giám định và những người có liên quan khác không được xem xét và các vị đại diện Viện Kiểm sát không tranh luận là một điều đáng tiếc. Thân chủ tôi có khai là bị đánh đập trong quá trình điều tra khiến hình ảnh của cơ quan điều tra xấu đi trong mắt nhân dân, nếu có mặt luật sư thì điều đó sẽ được giảm thiểu. Cần xem xét lại việc có mặt của luật sư trong các vụ án tương tự để tránh khả năng xảy ra oan sai. Về thẩm quyền của giám định viên: Chúng tôi phủ nhận vai trò của các giám định viên.

Luật sư Nguyễn Văn Miếng: Bản dịch được dịch qua công ty dịch thuật thiếu chuyên môn.

Luật sư Lê Văn Luân: Nhiều nội dung của tôi chưa được đối đáp. Thẩm quyền giám định. Nguồn chứng cứ được thu giữ không biết được thu giữ từ bà Trang hay được thu giữ từ một nguồn khác rồi đưa bà Trang ký? Nguồn chứng cứ không đảm bảo thì không thể làm chứng cứ để buộc tội. Cáo trạng chỉ căn cứ vào lời khai để buộc tội. Bút lục 1044, Kết luận số 2987 ghi rõ, chỉ trang đầu trong 41 trang tài liệu là chữ ký bà Trang, còn 40 chữ ký còn lại trong các trang sau không đủ cơ sở để xác định chữ ký là của ai. Thủ tướng Phạm Minh Chính đã cam kết sẽ cải thiện vấn đề nhân quyền để thu hút đầu tư nước ngoài, vì vậy HĐXX cần phải làm rõ sự thật khách quan của vụ án để đảm bảo sự tuân thủ pháp luật và tinh thần thượng tôn pháp luật cũng như cam kết của ông Thủ tướng.

Bà Trang bổ sung thêm: Ông Phạm Minh Chính là học trò của mẹ tôi. Trong việc thẩm định văn chương, nghiên cứu là vô cùng khó khăn nếu tác giả bài viết không nhận thì tôi thách cơ quan giám định, cơ quan điều tra xác định được.

Chủ tọa: Tôi nhắc nhở bị cáo về cách sử dụng ngôn ngữ tại tòa.

Bà Trang: Tôi nói rằng không ai chứng minh được tác giả của bài viết nếu người viết không xác nhận. Cơ quan điều tra tự dịch tài liệu rồi phát tán rồi gán cho tôi là tác giả và quy chụp trách nhiệm cho tôi là sai trái.

Luật sư Ngô Anh Tuấn: Chúng ta phải thừa nhận rằng, vụ án hình sự nào cũng phải có bị hại, không có bị hại thì có thể có vụ án hay không? Vụ án này bị hại là ai? Theo hồ sơ vụ án, ta có thể hình dung ra hai “bị hại” được nhắc tới, đó là “Chính quyền nhân dân” và “Nhân dân”. “Chính quyền nhân dân” thì bị phỉ báng, còn “Nhân dân” thì bị gây hoang mang!  Nhưng “Chính quyền nhân dân” ở đây cụ thể là ai? Và họ đã bị phỉ báng thế nào, để lại hậu quả gì không, họ đã lên tiếng thế nào…?  “Nhân dân” ở đây là ai và họ đã bị gây hoang mang như thế nào, có ai lên tiếng hay không?

Một vụ án mới đây mà TAND tỉnh Hòa Bình đã xét xử, chúng tôi ghi nhận sự nỗ lực của cơ quan điều tra là đã chứng minh người dân đã bị gây hoang mang, dù chỉ hai người thôi nhưng dù sao thì đó cũng là một cơ sở để cáo buộc bị cáo, còn vụ án này, chúng tôi không thấy bất kỳ một nạn nhân hiện hữu nào! Một vụ án không có nạn nhân thì chúng ta xử tội gì với bị cáo, điều này liệu có công bằng? Đề nghị đại diện Viện kiểm sát đối đáp lại để HĐXX có cơ sở nhận định và ra phán quyết một cách công tâm, khách quan.

Luật sư Nguyễn Văn Miếng: Tại sao hành vi đã diễn ra từ những năm 2016 nhưng không được xử lý? Có chăng cơ quan có thẩm quyền chỉ định xử lý hành chính rồi tới lúc không thể làm gì khác lại đưa ra truy cứu trách nhiệm hình sự?

ĐỐI ĐÁP TIẾP CỦA ĐẠI DIỆN VIỆN KIỂM SÁT

Các tài liệu được thu thập bằng tiếng Anh nên được dịch qua tiếng Việt là đúng quy định của pháp luật. Chúng tôi không chỉ căn cứ vào lời khai của bị cáo để kết tội bị cáo mà còn căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Nhiều bài đăng trên Facebook của bị cáo đã phát tán trên mạng xã hội đã nhận được rất nhiều like và chia sẻ của cộng đồng mạng nên không cần thiết phải chứng minh ai hoang mang hay không. HĐXX tuyên bố chấm dứt phần tranh luận trong khi kiểm sát viên chưa dứt nội dung tranh luận của mình, chuyển sang phần nghị án.

(Kiểm sát viên và các luật sư không kịp phản ứng gì; trước khi chuyển sang phần nghị án, chủ tọa cho phép bị cáo nói lời nói cuối cùng)

LỜI NÓI CUỐI CÙNG CỦA BÀ PHẠM THỊ ĐOAN TRANG

Tôi đề nghị các luật sư, trong phần lời nói cuối cùng của tôi, nếu bị ngắt giữa chừng thì mong các luật sư bảo vệ quyền được nói của tôi.

Bà Trang nói:

Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, lãnh tụ tinh thần của người Phật giáo Tây Tạng, từng nói một câu đại ý: Chúng ta hãy thử tưởng tượng một thế giới trong đó có cả sáu tỷ người đều theo cùng một tôn giáo thì điều gì sẽ xảy ra khi đó? Chắc chắn là trước sau cũng có một nhóm người thấy rằng tôn giáo đó không còn mang lại lợi ích cho họ nữa, thế là họ tách ra và thế giới có thêm một nhóm tôn giáo khác hoặc một nhóm người không theo tôn giáo nào.

Điều Đức Đạt Lai Lạt Ma nói là để chúng ta thấy rằng bản chất của thế giới này, bản chất của cuộc sống là đa nguyên, và bản chất của con người là hướng tới sự đa nguyên. Chỉ có những kẻ ngu xuẩn mới đi tranh cãi về sự đa nguyên và phủ định sự đa nguyên. Chỉ những kẻ độc ác mới tiêu diệt sự đa nguyên. Và chỉ có những chính quyền cực kỳ độc ác và ngu xuẩn mới tiêu diệt sự đa nguyên bằng cách đàn áp, cầm tù những người bất đồng chính kiến…

Chủ tọa nhắc nhở: Yêu cầu cáo dừng lại!

Bà Trang tiếp tục: Trong một xã hội dân chủ, nếu có một công dân viết sách, viết báo hoặc trả lời phỏng vấn báo chí nước ngoài nói lên những điều chính quyền không muốn nghe thì cách hành xử văn minh có thể là gì?

Chủ tọa nhắc nhở: Yêu cầu cáo dừng lại!

Bà Trang vẫn tiếp tục: Con người văn minh phải biết tôn trọng quan điểm của người khác. Tôi là nhà báo, tôi phải lên tiếng vì người yếu thế. Tôi không thể làm khác được. Nhân vật Nguyễn Trãi trong vở kịch “Bí mật vườn Lệ Chi” đã nói: “Con thú có thể cắn chết con người nhưng vẫn là con thú. Con người mang trong mình lẽ phải có thể bị sát hại vì lẽ phải, nhưng bảo vệ lẽ phải mãi mãi vẫn là thiên chức của con người”.

Chủ tọa nhắc nhở: Yêu cầu cáo dừng lại!

Bà Trang lại tiếp tục: Ngày hôm nay các vị có thể kết án tôi với bất kỳ mức án nào và hả hê đắc thắng vì đã xóa bỏ được một cái gai trong mắt các anh chị nhiều năm nay, nhưng mãi mãi các anh chị không xóa bỏ được tiếng xấu, độc tài, phi dân chủ, phản dân chủ.

Chủ tọa nhắc nhở: Yêu cầu cáo dừng lại!

Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo dừng lại và vào phòng nghị án trong khi bà Trang đang nói.

Ông Phạm Chính Trực, anh trai bà Phạm Đoan Trang ngồi hàng ghế dự khán vỗ tay và nói lời ủng hộ, động viên em gái liền bị cảnh sát tư pháp áp giải ra khỏi phòng xử án.

HĐXX vào phòng nghị án (15h55)

TUYÊN ÁN (17h)

HĐXX tuyên phạt bà Phạm Thị Đoan Trang mức án chín năm tù giam, cao hơn mức đề xuất của đại diện Viện Kiểm sát đề nghị.

P/S: Việc ghi chép của tôi không thể đầy đủ toàn bộ nội dung vì tôi vừa phải chuẩn bị nội dung công việc của mình đánh máy tài liệu nhưng những nội dung tôi ghi là hoàn toàn trung thực, khách quan như lâu nay tôi vẫn thường làm và như chính con người của tôi. Các luật sư đồng nghiệp sẽ bổ sungg, nếu còn thiếu sót…

(Tựa của SGN)

Trong Dong Dong Son

Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca

 

Nguồn: thivien.net

Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca là một cuốn sử bằng văn Nôm theo thể thơ lục bát, tóm tắt các sự việc lớn xảy ra trong nước ta từ đời Hồng Bàng đến cuối đời Tây Sơn. Quyển thi sử này được biên soạn bởi một danh sĩ dưới đời nhà Nguyễn vào giữa thế kỷ thứ 19. Ông tên là Lê Ngô Cát (1827-1875), sinh ở làng Hương Lang, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Đông, đỗ cử nhân năm 1848, giữ chức biên tu ở Quốc sử quán.

Bản ý của người soạn là làm bài vè về quốc sử để cho mọi người, mọi giới đọc được và thích ý dễ nhớ. Thế cho nên mục đích của bản sử này là phổ thông cho người bình dân chứ không phải giành cho giới khảo cứu.

Xin lần lượt chia sẻ cùng quý đồng hương các dòng thơ Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca qua những bản tin của Cộng Đồng để quý vị được ôn lại các trang sử của dân tộc ta.

I. Thời kỳ mở nước (Thế kỷ 29 – thế kỷ 2 trước CN)

Hồi 01 – Nhà Hồng Bàng (2879 – 258 Trước CN)

1. Mở đầu

Nghìn thu gặp hội thăng bình,
Sao Khuê sáng vẻ văn minh giữa trời.
Lan đài dừng bút thảnh thơi,
Vâng đem quốc ngữ diễn lời sử xanh.
Nam Giao là cõi ly minh,
Thiên thư định phận rành rành từ xưa.
Phế hưng đổi mấy cuộc cờ,
Thị phi chép để đến giờ làm gương.

2. Kinh Dương Vương

Kể từ trời mở viêm bang,
Sơ đầu có họ Hồng Bàng mới ra.
Cháu đời Viêm đế thứ ba,
Nối dòng Hoả đức gọi là Đế Minh.
Quan phong khi giá Nam hành,
Hay đâu Mai Lĩnh duyên sinh Lam Kiều,
Vụ tiên vừa thuở đào yêu,
Xe loan nối gót, tơ điều kết duyên.
Dòng thần sánh với người tiên,
Tinh anh nhóm lại, thánh hiền nối ra,
Phong làm quân trưởng nước ta,
Tên là Lộc Tục, hiệu là Kinh Dương.
Hoá cơ dựng mối luân thường.
Động đình sớm kết với nàng Thần long.
Bến hoa ứng vẻ lưu hồng
Sinh con là hiệu Lạc Long trị vì.

3. Lạc Long Quân và Âu Cơ

Lạc Long lại sánh ưu ky.
Trăm trai điềm ứng hùng bi lạ dường.
Noãn bào dù chuyện hoang đường,
Ví xem huyền điểu sinh Thương khác gì?
Đến điều tan hợp cũng kỳ,
Há vì thuỷ hoả sinh ly như lời,
Chia con sự cũng lạ đời,
Quy sơn, quy hải khác người biệt ly.
Lạc Long về chốn Nam thuỳ,
Âu Cơ sang nẻo Ba Vì Tản Viên.
Chủ trương chọn một con hiền,
Sửa sang việc nước nối lên ngôi rồng.

4. Hùng Vương và nước Văn Lang

Hùng Vương đô ở châu Phong,
Đấy nơi Bạch Hạc hợp dòng Thao giang.
Đặt tên là nước Văn Lang,
Chia mười lăm bộ, bản chương cũng liền.
Phong Châu, Phúc Lộc, Chu Dên,
Nhận trong địa chí về miền Sơn Tây;
Định Yên, Hà Nội đổi thay,
Đấy châu Giao Chỉ xưa nay còn truyền.
Tân Hưng là cõi Hưng, Tuyên,
Vũ Ninh tỉnh Bắc, Dương Tuyền tỉnh Đông;
Thái, Cao hai tỉnh hỗn đồng,
Đấy là Vũ Định tiếp cùng biên manh;
Hoài Hoan: Nghệ; Cửu Chân: Thanh;
Việt Thường là cõi Trị, Bình Trung Châu.
Lạng là Lục Hải thượng du
Xa khơi Ninh Hải thuộc vào Quảng Yên.
Bình Văn, Cửu Đức còn tên,
Mà trong cương giới sơn xuyên chưa tường.
Trước sau đều gọi Hùng Vương,
Vua thường nối hiệu, quan thường nối tên.
Lạc Hầu là tướng điều nguyên,
Vũ là Lạc Tướng giữ quyền quân cơ;
Đặt quan Bồ Chinh hữu tư
Chức danh một bực, đẳng uy một loài.

5. Giao thiệp với Trung Hoa

Vừa khi phong khí sơ khai,
Trinh nguyên xẩy đã gặp đời Đế Nghiêu.
Bình Dương nhật nguyệt rạng kiêu,
Tấm lòng quỳ, hoắc cũng đều hướng dương.
Thần Quy đem tiến Đào Đường,
Bắc Nam từ ấy giao bang là đầu.
Man dân ở chốn thượng lưu,
Lấy nghề chài lưới làm điều trị sinh.
Thánh nhân soi xét vật tình,
Đem loài thuỷ quái vẽ mình thổ nhân.
Từ sau tục mới văn thân,
Lợi dân đã dấy, hại dân cũng trừ.
Dõi truyền một mối xa thư,
Nước non đầm ấm, mây mưa thái bình.
Vừa đời ngang với Chu Thành,
Bốn phương biển lặng, trời thanh một mầu.
Thử thăm Trung Quốc thể nào,
Lại đem bạch trĩ dâng vào Chu Vương.
Ba trùng dịch lộ chưa tường,
Ban xe tí ngọ chỉ đường Nam quy.

6. Chuyện Phù Đổng Thiên Vương

Sáu đời Hùng vận vừa suy,
Vũ Ninh có giặc mới đi cầu tài,
Làng Phù Đổng có một người,
Sinh ra chẳng nói, chẳng cười trơ trơ.
Những ngờ oan trái bao giờ.
Nào hay thần tướng đợi chờ phong vân.
Nghe vua cầu tướng ra quân,
Thoắt ngồi, thoắt nói muôn phần khích ngang.
Lời thưa mẹ, dạ cần vương.
Lấy trung làm hiếu một đường phân minh.
Sứ về tâu trước thiên đình,
Gươm vàng, ngựa sắt đề binh tiến vào.
Trận mây theo ngọn cờ đào,
Ra uy sấm sét, nửa chiều giặc tan.
Áo nhung cởi lại Linh San,
Thoắt đà thoát nợ trần hoàn lên tiên.
Miếu đình còn dầu cố viên,
Chẳng hay chuyện cũ lưu truyền có không?

7. Chuyện Sơn Tinh và Thuỷ Tinh

Lại nghe trong thủa Lạc Hùng
Mị Châu có ả tư phong khác thường,
Gần xa nức tiếng cung trang.
Thừa long ai kẻ đông sàng sánh vai?
Bỗng đâu vừa thấy hai người,
Một Sơn Tinh với một loài Thuỷ Tinh,
Cầu hôn đều gửi tấc thành,
Hùng Vương mới phán sự tình một hai.
Sính nghi ước kịp ngày mai,
Ai mau chân trước, định lời hứa anh.
Trống lầu vừa mới tan canh,
Kiệu hoa đã thấy Sơn Tinh chực ngoài.
Ước sao lại cứ như lời,
Xe loan trăm cỗ đưa người nghi gia.
Cung đàn tiếng địch xa xa,
Vui về non Tản, oán ra bể Tần.
Thuỷ Tinh lỡ bước chậm chân,
Đùng đùng nổi giận, đem ân làm thù.
Mưa tuôn gió thổi mịt mù,
Ào ào rừng nọ, ù ù núi kia,
Sơn thần hoả phép cũng ghê,
Lưới giăng dòng Nhị, phen che ngàn Đoài.
Núi cao sông cũng còn dài,
Năm năm báo oán, đời đời đánh ghen.

8. Chuyện Chử Đồng Tử và Tiên Dung

Bổ di còn chuyện trích tiên,
Có người họ Chử ở miền Khoái Châu.
Ra vào nương náu Hà Châu.
Phong trần đã trải mấy thâu cùng người.
Tiên Dung gặp buổi đi chơi,
Giỏ đưa Đằng Các, buồm xuôi Nhị Hà,
Chử Đồng ẩn chốn bình sa
Biết đâu gặp gỡ lại là túc duyên.
Thừa lương nàng mới dừng thuyền,
Vây màn tắm mát kề liền bên sông.
Người thục nữ, kẻ tiên đồng,
Tình cờ ai biết vợ chồng duyên ưa.
Giận con ra thói mây mưa,
Hùng Vương truyền lịnh thuyền đưa bắt về.
Non sông đã trót lời thề,
Hai người một phút hoá về Bồng Châu,
Đông An, Dạ Trạch đâu đâu,
Khói hương nghi ngút truyền sau muôn đời.

9. Hết đời Hồng Bàng

Bể dâu biến đổi cơ trời,
Mà so Hồng Lạc lâu dài ai hơn?
Kể vua mười tám đời truyền,
Hai ngàn năm lẻ vững bền khôn lay.
Một dòng phụ đạo xưa nay,
Trước ngang Đường Đế sau tầy Noãn Vương.

 

Hồi 02 – Nhà Thục (258 – 207 trước CN)

1. Thần Kim quy giúp vua Thục

Thục từ dứt nước Văn Lang
Đổi tên Âu Lạc, mới sang Loa thành.
Phong Khê là đất Vũ Ninh,
Xây thôi lại lở, công trình biết bao
Thục Vương thành ý khẩn cầu,
Bỗng đâu giang sứ hiện vào kim quy.
Hoá ra thưa nói cũng kỳ,
Lại tường cơn cớ bởi vì yêu tinh.
Lại hay phù phép cũng linh,
Vào rừng sát quỷ, đào thành trừ hung.
Thành xây nửa tháng mà xong.
Thục vương cảm tạ tấm lòng hiệu linh.
Lại bàn đến sự chiến tranh,
Vuốt thiêng để lại tạ tình quân vương.
Dặn sau làm máy Linh Quang,
Chế ra thần nỏ, dự phòng việc quân.

2. Trung Hoa đánh Âu Lạc

Bấy giờ gặp hội cường Tần,
Tằm ăn lá Bắc, toan lần cành Nam.
Châu Cơ muốn nặng túi tham,
Đồ Thư, Sử Lộc sai làm hai chi.
Lĩnh Nam mấy chốn biên thuỳ,
Quế Lâm, Tượng quận thu về bản chương.
Đặt ra uý, lịnh rõ ràng,
Họ Nhâm, họ Triệu sai sang giữ gìn.
Hai người thống thuộc đã quen,
Long Xuyên, Nam Hải đôi bên lấn dần.
Chia nhau thuỷ bộ hai quân,
Tiên du ruổi ngựa, Đông tân đỗ thuyền.
Thục vương có nỏ thần truyền,
Muôn quân buông một lượt tên còn gì?
Nhâm Hiêu mắc bệnh trở về,
Triệu Đà lại khiến sứ đi xin hoà.
Bình giang rạch nửa sơn hà
Bắc là Triệu uý, Nam là Thục vương.

3. Trọng Thuỷ và Mị Châu

Mặt ngoài hai nước phân cương,
Mà trong Triệu là mượn đường thông gia,
Nghĩ rằng: Nam Bắc một nhà;
Nào hay hôn cấu lại ra khấu thù.
Thục cơ tên gọi Mị Châu
Gả cho Trọng Thuỷ, con đầu Triệu vương.
Trăm năm đã tạc đá vàng,
Ai ngờ thế tử ra đàng phụ ân.
Tóc tơ tỏ hết xa gần.
Thừa cơ đem máy nỏ thần đổi đi,
Tỉnh thân giả tiếng Bắc quy.
Đinh ninh dặn hết mọi bề thuỷ chung
Rằng: “Khi đôi nước tranh hùng,
Kẻ Tần người Việt tương phùng đâu đây?
Trùng lai dù hoạ có ngày,
Nga mao xin nhận dấu này thấy nhau.”
Cạn lời, thẳng ruổi vó câu,
Quản bao liễu oán, hoa sầu nẻo xa.

4. Triệu Đà diệt Thục

Giáp binh sắp sẵn từ nhà,
Về cùng Triệu uý, kéo ra ải Tần,
An dương cậy có nỏ thần.
Vi kỳ còn hãy ham phần vui chơi,
Triệu quân ruổi đến tận nơi.
Máy thiêng đã mất, thế người cũng suy.
Vội vàng đến lúc lưu ly,
Còn đem ái nữ đề huề sau yên
Nga mao vẫn cứ lời nguyền,
Để cho quân Triệu theo liền bông tinh.
Kim quy đâu lại hiện linh;
Mới hay giặc ở bên mình không xa,
Bây giờ Thục chúa tỉnh ra,
Dứt tình, phó lưỡi Thái a cho nàng,
Bể Nam đến bước cùng đường,
Văn tê theo ngọn suối vàng cho xuôi.
Tính ra nước Thục một đời,
Ở ngôi vừa được năm mươi năm tròn.
Nghe thần rồi lại tin con;
Cơ mưu chẳng nhiệm, thôi còn trách ai?

 

Hồi 03 – Nhà Triệu (207 – 111 trước CN)

1. Triệu Vũ Vương thần phục nhà Hán

Triệu Vương thay nối ngôi trời,
Định đô cứ hiểm đóng ngoài Phiên ngu.
Loạn Tần gặp lúc Ngư Hồ,
Trời nam riêng mở dư đồ một phương.
Rồng Lưu bay cõi Phiếm dương,
Mới sai Lục Giả đem sang ấn phù.
Cõi nam lại cứ phong cho,
Biên thuỳ gìn giữ cơ đồ vững an.
Gặp khi gà Lữ gáy càn,
Chia đôi Hán, Việt lại toan sinh lòng.
Vì ai cấm chợ ngăn sông,
Để cho dứt nẻo quan thông đôi nhà.
Thân chinh hỏi tội Tràng Sa
Mân, Âu muôn dặm mở ra một lần.
Hán Văn lấy đức mục lân,
Sắc sai Lục Giả cựu thần lại sang.
Tỉ thư một bức chiếu vàng,
Ngỏ điều ân ý, kể đường thuỷ chung.
Triệu vương nghe cũng bằng lòng,
Mới dâng tạ biểu một phong vào chầu.
Ngoài tuy giữ lễ chư hầu,
Trong theo hiệu đế làm đầu nước ta.
Trăm hai mươi tuổi mới già,
Tính năm ngự vị kể già bảy mươi.

2. Triệu Văn Vương và Triệu Minh Vương

Văn Vương vừa nối nghiệp đời,
Lửa binh đâu lại động ngoài biên cương.
Phong thư tâu với Hán hoàng,
Nghĩa thanh sớm đã giục đường cất quân.
Vương Khôi vâng lịnh tướng thần,
Ải lang quét sạch bụi trần một phương.
Hán đình có chiếu ban sang,
Sai con Triệu lại theo đường cống nghi.
Xe rồng phút bỗng mây che,
Minh vương ở Hán lại về nối ngôi.
Bợm già bỗng rấm hoạ thai,
Vợ là Cù thị vốn người Hàm đan
Khuynh thành quen thói hồng nhan,
Đã chuyên sủng ái lại toan tranh hành.
Dâng thư xin với Hán đình,
Lập con thế tử, phong mình cung phi.

3. Cù Thị xin nhập Hán

Ai Vương thơ ấu nối vì,
Mẹ là cù hậu, nhiều bề riêng tây.
Cầu phong đã rắp những ngày,
Ngoài thông Bắc sứ trong gầy lệ giai.
Khéo đâu dắt díu lạ đời,
Sứ là Thiếu Quý vẫn người tình nhân.
Hoa tàn lại bén hơi xuân,
Giao hoan đôi mặt, hoà thân một lòng.
Nghĩ rằng: về Hán là xong,
Tình riêng phải mượn phép công mới già.
Làm thư gửi sứ đưa qua;
Mẹ con đã sắm sửa ra sang chầu.

4. Lữ Gia phá mưu Cù Thị

Lữ Gia là tướng ở đầu.
Đem lời can gián bây mưu xa gần.
Một hai ngăn đón hành trần:
“Để cho Triệu bích về Tần sao nên.”
Nàng Cù đã quyết một bên.
Lại toan mượn lấy sứ quyền ra tay.
Tiệc vui chén cúc giở say,
Mắt đưa cao thấp, giáo lay dùng dằng.
Đang khi hoan yến nửa chừng,
Lữ Gia biết ý ngập ngừng bước ra.
Chia quân cấm lữ về nhà,
Tiềm mưu mới họp năm ba đại thần.
Đôi bên hiềm khích thêm phần
Mụ Cù yếu sức, sứ thần non gan.

5. Hán đánh Nam Việt

Vũ thư đạt đến Nam Quan,
Hán sai binh mã hai ngàn kéo sang
Lữ Gia truyền hịch bốn phương:
Nỗi Hưng thơ dại, nỗi nàng dâm ô;
Tình riêng chim Việt ngựa Hồ,
Chuyên vần báu ngọc các đồ sạch không.
Rắp toan bán nước làm công.
Quên ơn thủa trước, không lòng mai sau.
Cũng tuồng Lữ Trĩ khác đâu,
Chồi non chẳng bẻ, rễ sâu khó đào.
Quan binh một trận đổ vào,
Lửa nào tiếc ngọc, nắng nào tiếc hoa.

6. Nhà Triệu mất

Vệ Dương lên nối nghiệp nhà,
Trong là quốc nạn, ngoài là địch nhân.
Hai nghìn giết sạch Hán quân,
Đem cờ sứ tiết để gần ải quan.
Tạ từ giả tiếng nói van,
Mấy nơi yếu hại sai quan đề phòng,
Bỗng đâu Hán lại tiếp sang,
Một kỳ tịnh tiến, năm đường giáp công.
Trong thành một ngọn lửa thông,
Chiêu hàng ngoài mạc, hội đồng các dinh.
Chạy ra lại gặp truy binh,
Vệ vương, Lữ tướng buộc mình cửa hiên.
Kể từ Triệu lịch kỷ niên,
Năm ngoài chín chục, ngôi truyền năm vua.
Trách ai gây việc tranh đua,
Vắn đài vận nước, được thua cơ trời.

 

II. Thời kỳ chống Bắc thuộc (Thế kỷ 2 trước CN – thế kỷ 10 sau CN)

Hồi 04 – Nhà Hán đô hộ và Hai Bà Trưng (111 – 43 trước CN)

1. Chính sách nhà Tây Hán

Giao Châu mới thuộc nước người,
Dấy về Tây Hán là đời Nguyên Phong.
Bản đồ vào sách hỗn đồng,
Đất chia chín quận, quan phong thú thần.
Đầu sai Thạch Đái trị dân,
Cầm quyền tiết việt giữ phần phong cương.
Tuần tuyên mới có Tích Quang,
Dạy dân lễ nghĩa theo đường hoa phong.
Nhâm Diên khuyên việc canh nông,
Đổi nghề ngư liệp về trong khuê điền.
Sính nghi lại giúp bổng tiền,
Khiến người bần khổ thoả nguyền thất gia.
Văn phong nhức dấy gần xa,
Tự hai hiền thú ấy là khai tiên.
Luân hồi trăm có dư niên,
Trải qua Đông Hán thừa tuyên mấy người.

2. Hai bà Trưng dựng nền độc lập

Đường ca lâu đã vắng lời,
Đến như Tô Định là người chí hung.
Bà Trưng quê ở châu Phong,
Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên.
Chị em nặng một lời nguyền,
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân.
Ngàn Tây nổi áng phong trần,
Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên.
Hồng quần nhẹ bước chinh yên,
Đuổi ngay Tô Định dẹp tan biên thành.
Đô kỳ đóng cõi Mê Linh,
Lĩnh nam riêng một triều đình nước ta.
Ba thu gánh vác sơn hà,
Một là báo phục, hai là bá vương.
Uy thanh động đến Bắc phương.
Hán sai Mã Viện lên đường tiến công.
Hồ Tây đua sức vẫy vùng,
Nữ nhi chống với anh hùng được nao?
Cấm Khê đến lúc hiểm nghèo,
Chị em thất thế cũng liều với sông.
Phục Ba mới dựng cột đồng,
Ải quan truyền dấu biên công cõi ngoài.
Trưng vương vắng mặt còn ai?
Đi về thay đổi mặc người Hán quan.

Hồi 05 – Giao Châu trong thời Bắc thuộc (43 – 544)

1. Chính sách nhà Đông Hán

Trải Minh, Chương đến Hiếu, An,
Tuần lương đã ít, tham tàn thiếu đâu.
Mới từ Thuận đế về sau,
Đặt quan thứ sử thuộc vào chức phương.
Kìa như Phàn Diễn, Giả Xương,
Chu Ngu, Lưu Tảo dung thường kể chi.
Trương Kiều thành tín phủ tuy,
Chúc Lương uy đức, man di cũng gần.
Hạ Phương ân trạch ngấm nhuần,
Một châu tiết việt hai lần thừa tuyên.

2. Lý Tiến, Lý Cầm làm quan nhà Hán

Tuần lương lại có Mạnh Kiên,
Khúc ca Giả phủ vang miền trung châu.
Ba năm thăng trạc về chầu,
Thổ quan Lý Tiến mới đầu Nam nhân.
Sở kêu: “Ai chẳng vương thần,
Sĩ đồ chi để xa gần khác nhau?”
Tình từ động đến thần lưu,
Chiếu cho cống sĩ bổ châu huyện ngoài.
Lý Cầm chầu chực điện đài,
Nhân khi Nguyên đán kêu lời xa xôi.
Rằng: “Sao phủ tái hẹp hòi?
Gió mưa để một cõi ngoài Viêm phương”.
Tấm thành cũng thấu quân vương,
Trung châu lại mới bổ sang hai người.
Nước Nam mấy kẻ nhân tài,
Mới cùng người Hán chen vai từ rày.

3. Họ Sĩ tự chủ

Lửa lò Viêm Hán gần bay,
Thế chia chân vạc, nào hay cơ trời.
Tranh nhau ba nước ba nơi,
Cầm quyền sinh sát mặc người phong cương.
Nho lưu lại có Sĩ vương,
Khơi nguồn Thù Tứ, mở đường lễ văn.
Phong tiêu rất mực thú thần,
Sánh vai Đậu Mục, chen chân Triệu Đà.
Sĩ Huy nối giữ tước nhà,
Dứt đường thông hiếu, gây ra cừu thù.
Cửa hiên phút bỗng hệ tù,
Tiết mao lại thuộc về Ngô từ rày.

4. Bà Triệu Ấu đánh Ngô

Binh qua trải bấy nhiêu ngày,
Mới sai Lục Dận sang thay phiên thần.
Anh hùng chán mặt phong trần,
Nữ nhi lại cũng có lần cung đao.
Cửu Chân có ả Triệu kiều,
Vú dài ba thước tài cao muôn người.
Gặp cơn thảo muội cơ trời,
Đem thân bồ liễu theo loài bồng tang.
Đầu voi phất ngọn cờ vàng,
Sơn thôn mấy cõi chiến trường xông pha.
Chông gai một cuộc quan hà,
Dù khi chiến tử còn là hiển linh.

5. Ngô Tấn tranh nhau Giao Châu

Từ giờ Ngô lại tung hoành,
Đặt làm Giao, Quảng hai thành mới phân.
Tôn Tư rồi lại Đặng Tuân,
Lữ Hưng, Dương Tắc mấy lần đổi thay.
Đổng Nguyên, Lưu Tuấn đua tay,
Kẻ Ngô, người Tấn những ngày phân tranh.
Đào Hoàng nối dựng sứ tinh,
Tân Xương, Cửu Đức, Vũ Bình lại chia.
Mười năm chuyên mặt phiên ly,
Uy gia bốn cõi, ân thuỳ một châu.
Khi đi, dân đã nguyện lưu,
Khi già, thương khóc khác nào từ thân.

6. Chính sách nhà Tấn

Ngô công nối dấu phương trần,
Hai mươi năm lẻ nhân tuần cũng yên.
Dân tình cảm kết đã bền,
Tước nhà Cố Bật lại truyền Cố Tham.
Dân tình khi đã chẳng kham,
Dẫu là Cố Thọ muốn làm ai nghe.
Quận phù lại thuộc Đào Uy,
Rồi ra Đào Thục, Đào Tuy kế truyền.
Bốn đời tiết việt cầm quyền,
Phiên bình muôn dặm, trung hiền một môn.
Tham tàn những lũ Vương Ôn,
Binh qua nối gót, nước non nhuộm trần.
Tấn sai đô đốc tướng quân,
Sĩ Hành là kẻ danh thần chức cao.
Dẹp yên rồi lại về trào,
Uy danh nào kém họ Đào thuở xưa.
Nguyễn Phu tài trí có thừa,
Phá năm mươi luỹ tảo trừ giặc Man.

7. Họ Đỗ ba đời làm thứ sử

Châu diên lại có thổ quan,
Đỗ công tên Viện dẹp đoàn Cửu Chân.
Tướng môn nối chức phiên thần,
Con là Tuệ Độ thêm phần uy danh.
Bổng riêng tán cấp cùng manh,
Cơm rau áo vải như hình kẻ quê.
Dâm từ cấm thói ngu mê,
Dựng nhà học hiệu giảng bề minh luân.
Ân uy ra khắp xa gần,
Cửa thành đêm mở, gió xuân một trời.
Hoàng Văn phủ ngữ cũng tài,
Một nhà kế tập ba đời tuần lương.

8. Giao Châu loạn

Đến triều Lưu Tống hưng vương,
Hoà Chi, Nguyên Cán sai sang hội đồng.
Đuổi Dương Mai, giết Phù Long,
Khải ca một khúc tấu công về trào.
Gió thu cuốn bức chinh bào,
Y thường một gánh, quy thiều nhẹ không.
Từ khi vắng kẻ chiết xung,
Tràng Nhân, Lưu Mục tranh hùng mấy phen.
Pháp Thừa cũng chức tuần tuyên,
Những chăm việc sách để quyền lại ty.
Dưới màn có Phục Đăng Chi,
Cướp quyền châu mục, lộng uy triều đình.
Tề suy, Nguyên Khải tung hoành,
Hùng phiên chiếm giữ cô thành một phương.
Bắc triều đã thuộc về Lương,
Lại sai Lý Thốc chiêu hàng nẻo xa.
Giao châu một giải sơn hà,
Ái Châu lại mới đặt ra từ rày.

Hồi 06 – Nhà Tiền Lý (544 – 603)

1. Lý Nam Đế dựng nền độc lập

Kể từ Ngô, Tấn lại đây,
Hai trăm mười bốn năm chầy cát phân.
Cỏ cây chan chứa bụi trần,
Thái bình mới có Lý Phần hưng vương.
Vốn xưa nhập sĩ nước Lương,
Binh qua gặp lúc phân nhương lại về.
Cứu dân đã quyết lời thề,
Văn thần, vũ tướng ứng kỳ đều ra,
Tiêu Tư nghe gió chạy xa,
Đông tây muôn dặm quan hà quét thanh.
Vạn Xuân mới đặt quốc danh,
Cải nguyên Thiên Đức, đô thành Long Biên.
Lịch đồ vừa mới kỷ niên,
Hưng vương khí tượng cũng nên một đời.
Quân Lương đâu đã đến ngoài,
Bá Tiên là tướng đeo bài chuyên chinh.
Cùng nhau mấy trận giao binh,
Thất cơ Tô Lịch, Gia Ninh đôi đường.
Thu quân vào ở Tân Xương,
Để cho Quang Phục chống Lương mặt ngoài.
Mới hay “nhật phụ mộc lai,”
Sấm văn trước đã an bài những khi.

2. Triệu Quang Phục phá Lương

Bấy giờ Triệu mới thừa ky,
Cứ đầm Dạ Trạch, liệu bề tấn công.
Lý vương phút trở xe rồng,
Triệu Quang Phục mới chuyên lòng kinh doanh.
Hương nguyền trời cũng chứng minh,
Rông vàng trao vuốt giắt vành đầu mâu.
Từ khi long trảo đội đầu,
Hổ hùng thêm mạnh, quân nào dám đương.
Bá Tiên đã trở về Lương,
Dương Sằn còn ở chiến trường tranh đua.
Một cơn gió bẻ chồi khô,
Ải lang dứt dấu ngựa Hồ vào ra,
Bốn phương phẳng lặng can qua,
Theo nền nếp cũ, lại ra Long Thành.

3. Lý Phật Tử đánh Triệu Quang Phục

Lý xưa còn có một cành,
Tên là Thiên Bảo náu mình Ai Lao.
Chiêu binh lên ở Động Đào,
Họ là Phật Tử cũng vào hội minh.
Đào lang lại đổi quốc danh,
Cũng toan thu phục cựu kinh của nhà.
Cành dâu mây toả bóng tà,
Bấy giờ Phật Tử mới ra nối dòng,
Rừng xanh gió phất cờ hồng,
Đề binh kéo xuống bẹn sông tung hoành.
Triệu vương giáp trận Thái Bình,
Lý thua rồi mới thu binh xin hoà.
Triệu về Long Đỗ, Nhị hà,
Lý về Hạ mỗ, ấy là Ô Diên.
Hai nhà lại kết nhân duyên,
Nhã lang sánh với gái hiền Cảo nương.
Có người: Hống, Hát họ Trương,
Vũ biền nhưng cũng biết đường cơ mưu.
Rằng: “Xưa Trọng Thuỷ, Mỵ Châu,
Hôn nhân là giả, khấu thù là chân.
Mảnh gương vãng sự còn gần,
Lại toan rắc mối Châu Trần sao nên?”
Trăng già sao nỡ xe duyên?
Để cho Hậu Lý gây nền nội công.
Tình con rể, nghĩa vợ chồng,
Tin nhau ai biết ra lòng lừa nhau.
Lâu la mới ngỏ tình đâu,
Nhã lang trộm lấy đâu mâu đổi liền.
Trở về giả chước vấn yên,
Giáp binh đâu đã băng miền kéo sang.
Triệu vương đến bước vội vàng,
Tình riêng còn chửa dứt đường cho qua.
Đem con chạy đến Đai nha,
Than thân bách chiến phải ra đường cùng!

4. Lý Phật Tử hàng Tuỳ

Từ nay Phật Tử xưng hùng,
Hiệu là Nam đế nối dòng Lý vương.
Phong châu mới mở triều đường.
Ô Diên, Long Đỗ giữ giàng hai kinh.
Tuỳ sai đại tướng tổng binh,
Lưu Phương là chức quản hành Giao Châu.
Đô long một trận giáp nhau,
Xin hàng Lý phải sang chầu Tấn Dương.
Từ giờ lại thuộc Bắc phương,
Mấy năm Tuỳ loạn rồi Đường mới ra.

Hồi 07 – Nền đô hộ của nhà Đường (603 – 905)

1. An Nam đô hộ phủ

Quan Tuỳ lại có Khâu Hoà,
Đem dâng đồ tịch nước ta về Đường.
An Nam mới lại canh trương,
Đặt Đô hộ phủ theo đường Trung Hoa.
Mười hai châu lại chia ra:
Giao, Phong, Lục, Ái, Chi, Nga, Diễn, Tràng.
Vũ an, Phúc Lộ, Hoan, Thang,
Cơ mi các bộ man hoang ở ngoài.

2. Mai Thúc Loan khởi nghĩa

Quan Đường lắm kẻ tham tài,
Binh dân hàm oán, trong ngoài hợp mưu.
Mai Thúc Loan ở Hoan Châu,
Quân ba mươi vạn ruổi vào ải xa.
Hiệu cờ Hắc Đế mở ra,
Cũng toan quét sạch sơn hà một phương.
Đường sai Tư Húc tiếp sang,
Hợp cùng Sở Khách hai đàng giáp công.
Vận đời còn chửa hanh thông.
Nước non để giận anh hùng nghìn thu.

3. Giặc Đồ Bà

Trấn nam lại đổi tên châu,
Một đời canh cải trước sau mấy kỳ.
Xa khơi ngoài chốn biên thuỳ,
Đồ Bà giặc mọi đua bề phân tranh.
Bá Nghi hợp với Chính Bình,
Dẹp đoàn tiểu khấu, xây thành Đại La.

4. Phùng Hưng khởi nghĩa

Xiết bao phú trọng, chính hà,
Sinh dân sầu khổ ai là xót chăng?
Đường lâm mới có Phùng Hưng,
Đã tài kiêu dũng, lại lưng phú hào.
Cõi Tây nổi việc cung đao,
Đô quân tôn hiệu, Tản Thao hiệp tình.
Đem quân thẳng đến vây thành,
Đại La thế bức, Chính Bình hồn tiêu.
Nhân phủ trị mở ngôi triều,
Phong châu một giải nhiếp điều mấy niên.
Đế hương phút trở xe biền,
Đại vương Bố Cái tiếng truyền muôn thu.
Phùng An con nối thơ ngu,
Nghe quan nhu viễn bầy mưu hàng Đường.

5. Chuyện Lý Ông Trọng

Kể từ đô hộ Triệu Xương,
Thành La xây lại vững vàng hơn xưa.
Thuyền chơi qua bến sông Từ,
Giấc nồng đâu bỗng tình cờ lạ sao.
Thấy người hai trượng dài cao,
Bàn kinh, giảng truyện khác nào văn nhân.
Cùng nhau như gửi tâm thần,
Tỉnh ra mới rõ nguyên căn tỏ tường.
Lý Ông Trọng ở Thuỵ Hương,
Người đời vua Thục mà sang thi Tần.
Hiếu liêm nhẹ bước thanh vân,
Làm quan hiệu uý đem quân ngữ Hồ.
Uy danh đã khiếp Hung Nô,
Người về Nam quốc, hình đồ Bắc phương.
Hàm dương đúc tượng người vàng,
Uy thừa còn giúp Tần hoàng phục xa.
Hương thơm cổ miếu tà tà,
Từ nay tu lý mới là phong quang.

6. Quan lại nhà Đường

Triệu công tuổi tác về Đường,
Quý Nguyên, Bùi Thái tranh quyền với nhau.
Triều đình kén kẻ trị châu,
Triệu công vâng mệnh xe thiều, lại sang.
Bản kiều vừa nhận dấu sương,
Bến hồng đã định, khói lang cũng tàn.
Trương Đan thay chức phiên hàn,
Tập nghề thuỷ chiến, tạo thuyền đồng mông.
Đại la mới đắp luỹ vòng,
Ái, Hoan thành cũ đều cùng tái tu.
Quan tham ai chẳng oán thù,
Kìa như Tượng Cổ sư đồ bạn ly.
Quan hiền ai chẳng uý uy,
Kìa như Mả Tổng man di đầu hàng.
Nguyên Gia dời phủ Tô Giang,
Đến năm Bảo Lịch dời sang Tống Bình.
Giao Châu binh mã tung hoành,
Thăng Triều đã dẹp, Dương Thanh lại nồng.
Kìa ai tôn trở chiết xung,
Mã công tên Thực anh hùng kém chi.
Tiết thanh cảm vật mới kỳ,
Dưới dòng Hợp Phố châu đi cũng về.
Kiềm châu xa ruổi mã đề,
Hồng bay còn dấu tuyết nê chưa mòn.
Nhũng quan lại gặp Vũ Hồn,
Thành lâu lửa cháy, dinh đồn quân reo.
Đoàn công vâng mệnh Đường triều.
Trước xe phủ dụ, giặc nào chẳng tan.
Thôi trung thổ, lại ngoại man,
Châu Nhai, Nguyên Hựu sai quan mấy lần.
Nho môn có kẻ tướng thần,
Họ Vương tên Thức kinh luân gồm tài.
Thành môn nghiêm nghị trong ngoài,
Trồng cây trúc mộc, tập bài cung đao.
Châu dân đều thấm ân cao,
Chiêm Thành, Chân Lạp cũng vào hiệu cung.

7. Giặc Nam Chiếu

Xe thiều vừa trở về Đông,
Giặc Man thừa khích ruổi giong cõi ngoài.
Vương Khoan, Lý Hộ phi tài,
Đường sai Thái Lập lĩnh bài Giao Châu.
Biên thư mấy bức về tâu,
Kẻ xin lưu thú, người cầu bãi binh.
Ghen công vi hoặc, Thái Kinh,
Thờ ơ để việc biên tình mặc ai.
Tiếc thay muôn dặm thành dài,
Cô quân nên nỗi thiệt tài chiết xung.
Ngu Hầu tiếp chiến bên sông,
Quyết liều một trận đều cùng quyên sinh.
Vua Đường tuyên chỉ triệt binh,
Bỏ hàm Đô hộ, đặt hành Giao Châu.
Trấn, đồn, cửa bể, đâu đâu,
Tống Nhung, Thừa Huấn hợp nhau một đường.
Dùng dằng nào dám tiến sang,
Tám ngàn quân bỏ cương tràng sạch không.
Dối tâu lại muốn cầu công,
Rồi ra sự phát đều cùng nghị lưu.

8. Cao Biền dẹp Nam Chiếu

Cao Biền là tướng lạc điêu,
Tài danh sớm đã dự vào giản tri.
Quân phù vâng lệnh chỉ huy,
Tiệp thư sai một tiểu ty về chầu.
Gia quan cho lĩnh tiết mao,
Đặt quân Tĩnh Hải biên vào bản chương.
Một châu hùng cứ xưng vương,
Thành La rộng mở, kim thang vững bền.
Tuần hành trải khắp sơn xuyên,
Đào Thiên uy cảng, thông thuyền vãng lai.
Chín năm khép mở ra tài,
Thành trì truyền dấu, miếu đài ghi công.
Rồi khi trở ngựa Hán Trung,
Cao Tầm là cháu nối dòng xưng phiên.
Họ Tăng, tên Cổn cũng hiền,
Giao Châu di ký còn truyền một chương.

 

III. Thời kỳ xây dựng Độc lập và thống nhất (Thế-kỷ thứ 10)

Hồi 08 – Nhà Ngô (906 – 907)

1. Họ Khúc dấy nghiệp

Ba trăm năm lẻ Tuỳ, Đường,
Lại trong Ngũ quý tang thương cũng dài,
Hồng châu Khúc Hạo hùng tài,
Gặp đời Thúc Quý toan bài bá vương.
Cõi nhà hùng cứ nam phương,
Cung cầu một lễ, Hán Lương hai lòng.
Quy mô cũng rắp hỗn đồng,
Điền tô, đinh ngạch đều cùng định nên.
Thừa gia vừa được tái truyền,
Bởi cầu Lương tiết hoá nên Hán tù.
Dương Đinh Nghệ lại báo thù,
Đuổi người Hán, lĩnh châu phù vừa xong.
Nghĩa nhi gặp đứa gian hùng,
Kiều Công Tiện lại nỡ lòng sao nên.

2. Ngô Quyền phá quân Nam Hán

Dương công xưa có rể hiền,
Đường Lâm hào hữu tên Quyền họ Ngô.
Vì thầy, quyết chí phục thù,
Nghĩa binh từ cõi Ái châu kéo vào.
Hán sai thái tử Hoằng Thao,
Đem quân ứng viện toan vào giúp công.
Bạch Đằng một trận giao phong,
Hoằng Thao lạc vía, Kiều Công nộp đầu.
Quân thân đã chính cương trù,
Giang sơn rầy có vương hầu chủ trương.
Về Loa Thành mới đăng quang,
Quan danh cải định, triều chương đặt bày.

3. Dương Tam Kha tiếm ngôi

Nền vương vừa mới dựng xây,
Tiếc cho hưởng nước chưa đầy sáu năm.
Đến cơn loạn mệnh nên nhầm,
Cán Long tuyền để trao cầm tay ai?
Tam Kha là đứa gian hồi,
Lấy bè thích lý chịu lời thác cô.
Cành dương đè lấn chồi ngô,
Bình vương tiếm hiệu, quốc đô tranh quyền.

4. Nhà Ngô phục hung

Ngô vương vốn có con hiền,
Trưởng là Xương Ngập nối truyền thế gia.
Trà hương lánh dấu yên hà,
Hộ trì lại gặp tôi là Phạm Công.
Xương Văn em thứ con dòng,
Nương mình phủ dưỡng, cam lòng kinh doanh.
Nhân khi ra đánh Thái Bình,
Vén tay tả đản, về thành tập công.
Khoan hình rồi lại giáng phong,
Tư tình, công nghĩa thuỷ chung lưỡng tuyền.
Yên vui lại nhớ anh hiền,
Rước tìm Xương Ngập chung quyền quốc gia.
Chi lan xum họp một nhà,
Anh xưng Thiên Sách, em là Tấn Vương.
Cùng nhau đều hưởng giàu sang,
Dù khi chếch lệch biên tường cũng nguôi.
Bốn năm Thiên Sách vừa rồi,
Tấn Vương rầy mới chuyên ngôi một mình.
Sính tài lại hiếu việc binh,
Thao Giang đã tĩnh, Thái Bình lại vây.
Trận tiền một mũi tên bay,
Khinh thân vàng ngọc, trách này bởi ai?
Tiếc thay chửa được lâu dài,
Mười lăm năm mới hai đời đến đây.

Hồi 09 – Nhà Đinh và nhà Tiền Lê (967 – 1009)

1. Thập nhị sứ quân

Nghiệp Ngô rầy có ai thay?
Đua nhau lại, phó mặc tay quần hùng.
Tiên du riêng một đề phong,
Nguyễn Công Thủ Tiệp cứ vùng Nguyệt Thiên
Đường Lâm riêng một sơn xuyên,
Ngô Công Nhật Khánh cứ miền Tản Thao.
Tây phù liệt có Nguyễn Siêu,
Ngô Xương Xí giữ Bình Kiều một phương.
Tế giang này có Lữ Đường,
Nguyễn Khoan hùng cứ Vĩnh Tường phải chăng?
Phạm Phòng Át giữ châu Đằng,
Kiều Tam Chế giữ ngàn rừng châu Phong.
Đỗ Giang kìa Đỗ Cảnh Công;
Kiều công tên Thuận ở trong Hồi Hồ.
Kiến ong Siêu loại tranh đua,
Lý Khuê một cõi trì khu dầu lòng.
Kình nghê Bố Hải vẫy vùng,
Trần công tên Lãm xưng hùng một nơi.
Phân tranh hội ấy nực cười!
Mười hai quan sứ mỗi người mỗi phương.

2. Đinh Bộ Lĩnh hợp nhất quốc gia

Xây vần trong cuộc tang thương,
Trải bao phân loạn mới sang trị bình.
Có ông Bộ Lĩnh họ Đinh,
Con quan thử sử ở thành Hoa lư.
Khác thường từ thuở còn thơ,
Rủ đoàn mục thụ mở cờ bông lau.
Dập dìu kẻ trước người sau,
Trần ai đã thấy vương hầu uy dung.
Một mai về với Trần công,
Hiệu xưng Vạn Thắng, anh hùng ai qua.
Bốn phương thu lại một nhà,
Mười hai sứ tướng đều là quét thanh.

3. Chính sách nhà Đinh

Trường Yên đầu dựng đô thành.
Cải nguyên là hiệu Thái Bình từ đây.
Nghìn năm cơ tự mới xây,
Lên ngôi hoàng đế đặt bầy trăm quan.
Có đường bệ có y quan,
Đẳng uy có biệt, giai ban có thường.
Tống phong Giao Chỉ quận vương,
Cha con đều chịu sủng chương một ngày.
Hồng Bàng để mối đến nay,
Kể trong chính thống từ đây là đầu.
Tiếc không học vấn công phu,
Chuyện xưa ít biết, lo sau vụng đường.
Già tăng cũng dự quan sang,
Bặc, Điền, Cơ, Tú đều phường vũ nhân.
Nội đình năm vị nữ quân,
Nặng tình kiêm ái, quên phần di mưu.
Đã phong Đinh Liễn con đầu,
Hạng Lang là thứ nhẽ nào đổi thay?
Pháp hình cũng lạ xưa nay,
Hùm nuôi trong cũi, vạc bày ngoài sân.

4. Nhà Đinh mất ngôi

Chơi bời gần lũ tiểu nhân,
Rượu hoa ngọt giọng, đền xuân mê lòng.
Trùng môn thưa hở đề phòng,
Để cho Đỗ Thích gian hùng nỡ tay.
Nối sau Thiếu đế thơ ngây,
Lê Hoàn tiếp chính từ rầy dọc ngang.
Tiếm xưng là Phó quốc vương,
Ra vào cùng ả họ Dương chung tình.
Bặc, Điền vì nước liều mình,
Trách sao Cự Lạng tán thành mưu gian

5. Lê Hoàn phá quân Tống

Chợt nghe binh báo Nam Quan,
Cùng nhau phù lập Lê Hoàn làm vương.
Trước mành, vâng lệnh nàng Dương,
Trong cung đã thấy áo vàng đưa ra,
Trường Yên đổi mặt sơn hà,
Đại Hành trí lược thực là cũng ghê!
Vạc Đinh đã trở sang Lê,
Nàng Dương chăn gối cũng về hậu cung.
Nguy nga ngói bạc, cột đồng,
Cung đài trang sức buông lòng xa hoang,
Tự mình đã trái luân thường,
Lấy chi rủ mối, dựng giường, về sau.

6. Nhà Lê thất chính

Đoàn con đích, thứ tranh nhau,
Để cho cốt nhục thành cừu bởi ai?
Trung Tông vừa mới nối đời,
Cấm đình thoắt đã có người sính hung,
Ngoạ Triều thí nghịch hôn dung,
Trong mê tử sắc, ngoài nồng hình danh,
Đao sơn, kiếm thụ đầy thành,
Thuỷ lao bào lạc ngục hình gớm thay.
Bốn năm sầu oán đã đầy,
Vừa tuần Lê rụng đến ngày Lý sinh.

 

IV. Thời kỳ phát triển (Thế kỷ 11 – đầu thế kỷ 19)

Hồi 10 – Nhà Lý (1010 – 1225)

1. Lý Thái Tổ

Bắc Giang trời mở thánh minh,
Lý Công tên Uẩn nhân tình đới suy.
Lê triều làm chức chỉ huy,
Lũ Đào Cam Mộc ứng kỳ phù lên.
Đầu năm cải hiệu Thuận Thiên,
Thăng Long mới đổi đặt tên kinh thành.
Định ra thuế lệ phân minh,
Túc xa, quản giáp quân danh cũng tường.
Hỗn đồng một mối phong cương,
Hai mươi bốn lộ các đường mới chia.
Cử long sấm dậy binh uy,
Diễn Châu gió động tinh kỳ thân chinh.
Biện loan gặp lúc hối minh,
Hương nguyền cảm cách, sóng kình cũng êm.
Bốn phương trong trị, ngoài nghiêm,
Chiêm Thành, Chân Lạp xa đem cung cầu.
Ngựa man sang tiến Bắc triều,
Tống hoàng ban thưởng quan bào thêm vinh.
Ví hay đạo học tinh minh,
Đế vương sự nghiệp nước mình ai hơn?
Có sao tin hoặc dị đoan,
Say vui đạo Phật lưu tiên cảnh chùa?
Để cho dân tục tranh đua,
Ni cô nối gót, tăng đồ chen vai.
Bởi vì sinh cửa Như Lai,
Tiêu sơn từ thuở anh hài mới ra.
Sóng tình chìm nổi ái hà,
Chín ngôi hoàng hậu, phép nhà cũng sai.
Tự mình đã dựng lệ giai,
Khiến nên con cái, thêm bài tương tranh.

2. Lý Thái Tông bình Nùng, phục Chiêm

Thái Tông nối nghiệp thủ thành,
Anh em lại rắp đua giành ngôi cao.
Cùng nhau binh mã sấn vào,
Cấm thành bỗng chốc xôn xao chiến trường.
Trận tiền giết Vũ Đức Vương,
Đông Chinh, Dực Thánh tìm đường chạy xa.
Khoan hình lại xuống chiếu tha,
Thân phiên đã định, nước nhà mới yên.
Ban hình luật, canh tịch điền,
Mở đồ nhất thống cầm quyền tứ chinh.
Mừng xem “Phiên phục, Nùng bình”,
Huy xưng có chữ rành rành biểu tiên.
Vắn dài là số tự nhiên,
Tụng kinh cầu thọ, khéo nên chuyện cười.

3. Lý Thánh Tông, một ông vua nhân dung

Thánh Tông văn học hơn đời,
Bình Chiêm, đánh Tống, đủ tài kinh luân.
Khuyến nông chăm việc cần dân,
Chiếu chăn thương kẻ tù nhân lạnh lùng.
Thánh hiền tô tượng học cung,
Đặt khoa bác sĩ, ưu dung đại thần.
Ơn riêng mưa móc đượm nhuần,
Đã tiền lại lúa ân cần dưỡng liêm.
Hồ tây vui thú Dâm đàm,
Nỡ đem của nước xây làm cung tiên.
Chuông Sùng Khánh, tháp Báo Thiên,
Phật vàng đúc tượng, say thiền lạ sao.

4. Bà Ỷ Lan nhiếp chính

Nhân Tông tuổi chửa là bao,
Ngoài ra triều yết, trong vào giảng minh.
Thụ di có Lý Đạo Thành,
Ỷ Lan hoàng hậu buông mành giúp nên.
Mở khoa bác học cầu hiền,
Ba thăng một mẫu, thuế điền nhẹ thay!
Có khi xem gặt, xem cầy,
Lòng chăm điền dã, một ngày mấy tao.
Mưa ân ngấm khắp dồi dào,
Chuộc người bần nữ gả vào quan phu.

5. Lý Thường Kiệt bại Chiêm, phá Tống

Thân chinh xe ngựa trì khu,
Phá Sa động bắt man tù Nguỵ Phang.
Chiêm Thành nộp đất xin hàng,
Ba châu quy phụ một đường thanh di.
Tống binh xâm nhiễu biên thuỳ,
Tướng quân Thường Kiệt dựng cờ Bắc chinh.
Bên song Như Nguyệt trú dinh,
Giang sơn dường có thần linh hộ trì.
Miếu tiền phảng phất ngâm thi,
Như phân địa thế, như trì thiên binh.
Bấy giờ Tống mới hư kinh,
Giảng hoà lại trả mấy thành cố cương.
Lại còn hối hận một chương:
“Tham voi Giao Chỉ, mất vàng Quảng Nguyên”
Năm mươi năm lẻ lâu bền,
Vũ công văn đức rạng truyền sử xanh.
Thượng dương sao nỡ bạc tình,
Để bà Dương hậu một mình ngậm oan.
Kìa Lê Văn Thịnh mưu gian,
Thương chi quái hổ mà khoan lưới hình!
Phật từ như quả chứng minh,
Chuông chùa Diên Hựu đã thành phúc cai.
Cớ sao chi thứ nối đời,
Trừ quân lại thác vào người hoá duyên?

6. Lý Thần Tông khuyến khích việc nông

Thần Tông sinh cửa Sùng Hiền,
Dấu hang thi giải còn truyền Sài Sơn.
Thức nồng nhuộm vẻ chi lan,
Thông minh học vấn kiêm toàn cả hai.
Năm đầu vừa mới lên ngôi,
Giảng cầu trước đã mở bài kinh diên.
Quy nông cho lính canh phiên,
Rộng ân lại trả quan điền cho dân.

7. Đỗ Anh Vũ lộng quyền

Anh Tông còn thuở xung nhân,
Đỗ Anh Vũ lấy ngoại thân lộng hành.
Ra vào trong trướng, ngoài mành,
Cùng Lê Thái Hậu có tình riêng chung.
Tống giam đã bắt vào trong,
Mà Lê Hậu lại còn lòng đeo đai.
Rượu cơm vẫn cứ đưa mời,
Vàng cho ngục tốt liệu bài thoát ra.
Nghị đồ rồi lại được tha,
Để đoàn Vũ Đái đều là thác oan.

8. Tài kinh quốc của Tô Hiến Thành

Rồi ra vắng mặt quyền gian,
Hiến Thành hết sức cán toàn mới nên.
Khi triều Tống, khi sính Nguyên,
Một niềm cung thuận, đôi bên được lòng.
An Nam, Tống mới cải phong,
Quốc danh từ ấy rạng dòng viêm phương.
Thành nam mở chốn võ tràng,
Tập tành cung ngựa phô trương tinh kỳ.
Uy danh dậy đến biên thuỳ,
Chiêm Thành, Ngưu Hống man di cũng bình.
Tuần du đã tỏ dân tình,
Sơn xuyên trải khắp địa hình gần xa.
Trừ quân vì một nết tà
Đổi sang Long Cán còn là ấu niên.
Thác cô nhờ có tôi hiền,
Dẫu người hối chúc mà quyền chẳng sai.
Cao Tông ba tuổi nối đời,
Hiến Thành cư nhiếp, trong ngoài đều yên.
Di lưu còn muốn tiến hiền
Đem Trần Trung Tá thay quyền tán dương.

9. Lý Cao Tổ thất chính

Tiếc không dùng kẻ trung tương,
Cao Tông hoang túng mọi đường ai can?
Dấu xe quanh khắp giang san,
Chính mình lỗi tiết, du quan quá thường.
Lại thêm thổ mộc cung tường,
Mua quan bán ngục nhiều đường riêng tây.
Nhạc Chiêm rầu rĩ khéo bầy,
Những là tai biến từ này hiện ra.
Trâu đâu lên ngọn am la,
Thước đâu làm tổ góc nhà Kính Thiên.
Bốn phương trộm cướp nổi lên,
Quân Chiêm, người Tống xâm biên mấy kỳ.
Vui chơi nào có biết gì,
Thờ ơ phó chuyện an nguy mặc trời.

10. Quách Bốc chiếm kinh thành

Quyền cương ngày một đổi dời,
Phạm Du đã phản lại vời về kinh.
Bỉnh Di là kẻ trung thành,
Nghe gièm mà nỡ gia hình cớ sao?
Bởi ai gây việc oan cừu,
Để cho Quách Bốc sấn vào kim giai.
Xe loan lánh chạy ra ngoài,
Hoàng thân đế thích mỗi người một phương.

11. Họ Trần giúp vua Lý

Trừ quân đi đến Thiên Trường.
Tình cờ lại gặp một nường tiểu thư.
Con nhà Trần Lý công ngư.
Lưới chài nhưng cũng phong tư khác thường.
Trăng già đưa mối tơ vương,
Mới hay con tạo mở đường di duyên.
Họ Trần từ ấy nổi lên.
Kết bè thích lý, dựng nền tiếm giai.
Trần Tự Khánh ở phương ngoài,
Đem quân Hải ấp vào nơi đô thành.

12. Lý Huệ Tông phát điên

Huệ Tông gặp bước gập ghềnh,
Nhẹ ân mẫu hậu, nặng tình phu nhân.
Lạng châu xe đã Bắc tuần,
Nửa đêm riêng với nàng Trần lẻn đi.
Gặp quân Tự Khánh rước về,
Đương cơn gió bụi bốn bề chưa êm.
Huệ Tông cuồng tật lại thêm.
Khi ngày đứng múa khi đêm nằm dài.
Xuất gia lại muốn tu trai,
Ngôi thiêng phó thác cho người đào thơ.
Đằng sơn bóng nhật đã mờ,
Hai trăm mười sáu Lý cơ còn gì?”

13. Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng

Chiêu Hoàng là phận nữ nhi,
Phấn son gánh việc gian nguy được nào!
Xây vần cơ tạo khéo sao?
Bỗng xui Trần Cảnh hiện vào hầu trong.
Người yểu điệu, kẻ thư phong,
Bén hơi rơm lửa, động lòng mưa mây,
Vẩy nước chậu, vắt khăn tay,
Khi đêm đập bóng, khi ngày ngồi chung.
Hoa đào đã dạn gió đông.
Vua tôi phận đẹp, vợ chồng duyên may.
Chiếu rồng ban xuống năm mây.
Mừng rằng nữ chúa ngày nay có chồng.

Hồi 11 – Nhà Trần Thời kỳ Thịnh (1226 – 1340)

1. Những việc cải cách đầu tiên

Đông A tỏ mặt vừng hồng,
Thái tông cải hiệu Kiến Trung rõ ràng.
Trần Thừa là Thái thượng hoàng,
Chuyên quyền thính đoán, gồm đường kinh luân.
Soạn làm thông chế lễ văn,
Thuế điền đã định, số dân cũng tường.
Tướng thần mới đặt bình chương,
Huyện châu sai kẻ khoa trường trị dân,
Bạ đầu thi kẻ lại nhân.
Hiệu quân Tứ thánh, Tứ thần mới chia.
Hà phòng rày mới có đê,
Trăm quan áo mạo, dù xe thêm tường.
Việc ngoài đánh dẹp bốn phương,
Phó cho Thủ Độ chuyên đường trị dân.

2. Văn học và võ công

Thượng hoàng phút đã từ trần,
Thái tông tuổi mới đến tuần mười hai.
Cao minh đã có tư trời,
Lại thêm Thủ Độ vẽ vời khôn ngoan.
Sùng văn, tô tượng Khổng, Nhan,
Dựng nhà Quốc học, đặt quan Giám thần,
Bảy năm một hội thanh vân,
Anh tài náo nức dần dần mới ra.
Trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa,
Kẻ kinh, người trại cũng là tài danh
Lại thi thái học chư sinh,
Lại thi tam giáo chia rành ba khoa.
Thân chinh trỏ ngọn thiên qua,
Chiêm nam, Nguyên bắc đều là dẹp tan.

3. Phong tục đời Trần

Vì ai, đạt gánh giang san?
Mà đem cố chúa gia oan nỡ nào!
Chiêu hoàng duyên trước làm sao?
Gả đi bán lại, coi vào khó nghe!
Phép nhà chẳng sửa buồng the,
Vợ anh sao nỡ đem về hậu cung
Bởi ai đầu mở hôn phong,
Khiến nên một đạo khuê phòng thẹn riêng!
Thuần bôn dong thói ngửa nghiêng,
Họ đương lấy lẫn nào kiêng sợ gì.
Thiên Thành công chúa vu quy,
Sao Trần Quốc Tuấn cướp đi cho đành?
Sính nghi đem tiến thiên đình
Thuỵ bà lăng líu, Trung Thành ngẩn ngơ:
Dị đoan mê hoặc khôn chừa,
Chùa tô Phật tượng, đình thờ Thích Ca.
Tin lời phong thuỷ khi tà,
Đào sông đục núi cũng là nhọc thay!
Lễ đâu yến ẩm quá say,
Đội mo rót rượu, dan tay vui cười.
Ba mươi năm chán cuộc đời,
Truyền cho con nối, ra ngoài Bắc cung.

4. Đức độ và chính trị của Trần Thánh Tông

Thánh Tông hiếu hữu một dòng,
Sớm hôm chầu chực, mát nồng thảnh thơi.
Anh em đệm cả gối dài,
Sân trong yến lạc, cõi ngoài ấm phong.
Một thiên truyền thụ phép lòng,
Di mưu cho kẻ nối dòng ngày sau.
Văn nho khuya sớm giảng cầu,
Kẻ tu sử ký, người chầu kinh diên.
Bề ngoài nghiêm việc phòng biên,
Kén quân đoàn luyện tập thuyền Cửu sa.

5. Trần Hưng Đạo phá Mông Cổ

Trao truyền theo lối phép nhà,
Nhân Tông hùng lược lại là tài hơn,
Rợ Nguyên quen thói tham tàn,
Quân năm mươi vạn, những toan tranh hành,
Sắc sai Hưng Đạo tổng binh,
Với Trần Quang Khải các dinh tiến vào.
Chương Dương một trận phong đào,
Kìa ai cướp giáo, ra vào có công?
Hàm quan một trận ruổi rong,
Kìa ai bắt giặc, uy phong còn truyền?
Giặc Nguyên còn muốn báo đền,
Mượn đường hộ tống binh thuyền lại sang.
Xương bày trắng đất, máu màng đỏ sông.
Trần Hưng Đạo đã anh hùng,
Mà Trần Nhật Duật kể công cũng nhiều.
Hoài Văn tuổi trẻ trí cao,
Cờ đề sáu chữ quyết vào lập công.
Trần Bình Trọng cũng là trung,
Đành làm Nam quỷ, không lòng Bắc vương.
Khuyển ưng còn nghĩa đá vàng,
Yết Kiêu, Dã Tượng hai chàng cũng ghê!
Mà trong ngọc diệp kim chi,
Lũ Trần Ích Tắc sao đi đầu hàng?
Nhân khi biến cố vội vàng,
Kẻ trung người nịnh đôi dàng tỏ ra,
Trùng hưng đem lại sơn hà,
Đã hay thiên tướng cũng là tài sinh.
Nước nhà khi ấy thanh bình,
Truyền ngôi thái tử, lánh mình Ngoạ Vân.

6. Anh Tông và Minh Tông

Anh Tông nối giữ nghiệp Trần,
Trong tu văn đức, ngoài cần vũ công.
Có châm để dạy Đông cung.
Thuỷ vân có tập vui cùng bút nghiên.
Ví không mến phật, say thiền,
Cũng nên một đứng vua hiền Đông A.
Quyện cần rồi lại xuất gia,
Minh Tông kế thống cũng là hiền vương.
Mười lăm năm giữ phép thường,
Rạng nền nếp cũ, mở giường mối sau.
Tiếc không biện biệt ngư châu
Để cho tà nịnh ở đầu giai ban.
Khắc Chung thêm dệt lời gian,
Quốc Chân mắc phải tiếng oan thiệt mình.

7. Việc đánh dẹp về đời Hiến Tông

Hiến Tông làm máy lung linh,
Nghiêm xem tinh độ vận hành không sai.
Thạch đê mới đắp đường dài,
Nước sông thuận lối về ngoài biển Đông.
Thừa bình lại hiếu vũ công,
Đà Giang xa mã, Nam nhung tinh kỳ
Cổ quăng mấy kẻ truy tuỳ,
Nhữ Hài, Chiêu Nghĩa đều về thuỷ cung
Kiềm châu có đá kỷ công,
Oán dày vẻ triện, sầu đông ngấn rều.

Hồi 12 – Nhà Trần, thời kỳ suy (1341 – 1400)

1. Nhà Trần bắt đầu suy

Dụ Tông em lại thừa diêu,
Ngôi thay anh cả, quyền theo Thượng hoàng.
Thượng thư mới đặt tỉnh đường,
Đề hình chuyển vận chức thường có tên.
Khuyến nông sai sứ đồn điền,
Vân đồn đặt trấn tra thuyền khách nhân.
Khu tào thống lĩnh cấm quân,
Phong đoàn lại mới kén dần các đô.
Uy thanh xa động biên ngu,
Chiêm thành Chế Mộ dâng đồ thổ nghi
Mong nhờ đưa lối về quê,
Hay đâu gặp gió trở về luống công.
Thượng hoàng đã vắng mặt trong,
Nào ai kiêng sợ mà lòng chẳng di?
Đền Song Quế, ao Thanh trì,
Muông chim hoa cỏ thiếu gì trò chơi!
Trong cung cờ bạc chơi bời,
Tiệc vui chuốc chén, trận cười leo dây!
Đạo thường chẳng cẩn phòng vi,
Chị em chung chạ loạn bề đại luân.

2. Dương Nhật Lễ tiếm vị

Truyền ngôi con đứa ưu nhân,
Để Dương Nhật Lễ tiếm trần dựng lên.
Thói nhà bài hước đã quen,
Tiếng hoà nhịp phách, hát chen cung đàn.
Hiến từ đã phải hàm oan,
Trần công mưu hở thân tàn cũng thương!
Nghệ tông dòng dõi thiên hoàng,
Đà Giang lánh dấu, liệu đường khuất thân,
Tiềm mưu với kẻ tôn thần,
Đem về xã tắc nhà Trần thủa xưa.
Yêu phân dành đã tảo trừ,
Cũng là nối một mối thừa lại sau.

3. Chiêm Thành xâm nhiễu

Tiếc sao một bực ưu nhu,
Đông A từ ấy cơ đồ mới suy.
Giậu phên trống trải biên thuỳ,
Giặc Chiêm rong ruổi đô kỳ xôn xao.
Quý Ly cho dự khu tào,
Báu thiêng lại để gian hào khải du
Duệ Tông hăm hở phục thù,
Đánh Chiêm nào quản tri khu dặm trường.
Khinh mình vào động Ky Mang,
Tinh kỳ tan tác gió sương mịt mù.
Em là Phế Đế hôn ngu,
Chôn tiền giấu của như đồ trẻ chơi.

4. Hồ Quý Ly phế lập

Quý Ly quyền lấn trong ngoài
Buông lời sàm gián quên bài tôn thân.
Truyền vời Phế Đế vào sân,
Lụa đào một tấm bể trần kết oan.
Thuận Tông tuổi mọn tài hèn,
Ngồi không mà để chính quyền mặc ai.
Phải chăng bởi tại mưu người,
Mà điềm trẫm triệu cơ trời lạ sao!
Thượng hoàng một giấc chiêm bao,
“Bạch kê, xích chuỷ” ứng vào câu thơ.
Loạn trưng đã hiện từ giờ,
Mà đồ tứ phụ ai ngờ vẽ ra!
Chim con đem gửi ác già,
Chắc đâu phó thác hẳn là đắc nhân!

Hồi 13 – Nhà Hồ và giặc Minh (1400 – 1418)

1. Nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần

Quý Ly gắm ghé vạc Trần.
Quyết dời kẻ chợ về gần An Tôn.
Đã xui truyền vị cho con,
Ngọc Thanh lại kết oan hồn một giây.
Gặp khi Thiếu Đế thơ ngây,
Khát Chân, Trần Hãng đêm ngày hợp mưu.
Hội minh vừa mới lên lầu,
Ba trăm đồ đảng cùng nhau hiệp tình.
Dùng dằng chưa kịp cất binh,
Hở cơ một phút tan tành như tro.
Quý Ly mới đổi họ Hồ,
Quốc danh là hiệu Đại Ngu chương hoàng.
Truyền ngôi con cả Hán Thương,
Tự xưng là Thái thượng hoàng ở trong.
Sai người dâng biểu cầu phong,
Dối Minh xin để nối dòng quốc quân.

2. Quân Minh diệt nhà Hồ

Nguyễn Khang giả tiếng họ Trần,
Sang Minh xin lấy viện quân đưa về.
Chi Lăng nghe động cổ bề,
Lý Bân, Mộc Thạnh trỏ cờ tới nơi.
Quân Minh nhân thế đuổi dài,
Nhị Hồ mới chạy ra ngoài phương xa.
Núi Cao vọng, bến Kỳ la,
Đường cùng phải bắt cũng là trời xui!
Tôn vinh kể được mấy hơi,
Sáu năm tiếm vị, muôn đời ô danh

3. Trần Giản Định chống Minh

Quý Ly tội ác đã đành,
Rồi ra lại gặp người Minh hung tàn.
Chia phủ, huyện, đặt quân quan,
Cỏ cây đều phải lầm than hội này
Dòng Trần chưa dứt một dây,
Triệu Cơ còn rắp ra tay đồ hồi.
Lại phù Giản Định lên ngôi,
Cảnh Chân, Đặng Tất vua tôi hiệp tình.
Mở cờ đánh với quân Minh,
Phá đồn Cổ Lộng, đốt thành Bồ Cô.
Ví hay nhân thế tràng khu,
May ra khôi phục cơ đồ cũng nên.
Trùng hưng cơ tự chưa bền,
Bỗng không đem kẻ tướng hiền giết đi,
Cho nên hào kiệt bạn ly,
Cánh vây không có, còn gì mà mong?

4. Trần Trùng Quang chống Minh

Tướng môn lại có con dòng,
Đặng Dung, Cảnh Dị mới cùng hợp mưu.
Một hai quyết chí đồng cừu
Cùng đem binh sĩ ruổi vào Chi la.
Lại tìm dòng dõi Trần gia,
Tôn phù Quý Khoáng, ấy là Trùng Quang.
Đem binh vào phủ Thiên Tràng,
Đón vua Giản Định về đàng Nghệ An.
Cùng nhau gánh việc gian nan,
Hạ hồng tế ngựa, Bình Than đỗ thuyền.
Quân Minh cố giữ thành bền,
Bỗng đâu Trương Phụ băng miền lại sang.

5. Quân Minh chiếm toàn cõi Đại Việt

Từ khi Giản Định đầu hàng,
Nghệ an đất cũ Trùng Quang lại về.
Quân Minh chiếm giữ Bắc Kỳ,
Vua Trần lánh ở Nam thuỳ một nơi.
Đặng Dung, Cảnh Dị mấy người,
Thế cùng dù có tướng tài cũng thua.
Trước sau mười bốn đời vua,
Một trăm tám chục xuân thu chưa chầy.
Loạn cơ bởi tự ai gầy?
Quý Ly tiếm thiết tội dây muôn đời.
Chẳng qua lịch đổi, số dời,
Xui ra cho đứa gian hồi nhuốm tay.

6. Chính sách nhà Minh

Cốc lăng trời khéo đổi thay,
Giận riêng bờ cõi từ nầy thuộc Minh.
Người trí thức, kẻ tài danh,
Nam sơn đào độn, Bắc đình câu lưu,
Thuế tơ, thuế thóc tham cầu,
Mỏ vàng mỏ bạc, trưng thâu cũng nhiều;
Săn bạch tượng, hái hồ tiêu,
Mò châu, cấm muối, lắm điều hại dân.

Hồi 14 – Nhà hậu Lê, thời kỳ thống nhất (1410 – 1526)

1. Lê Thái Tổ phá giặc Minh

Mới hay cơ tạo xoay vần,
Có khi bĩ cực đến tuần thái lai.
Thiếu chi hào kiệt trong đời,
Non xanh nước bạc có người kinh luân.
Lương Giang trời mở chân nhân,
Vua Lê Thái Tổ ứng tuần mới ra.
Lam Sơn khởi nghĩa từ nhà,
Phong trần lắm lúc kể đà gian nguy.
Lạc Xuyên đầu giết Mã Kỳ,
Nghệ, Thanh một giải thu về bản chương.
Chia quân kinh lược mọi đường,
Hai kinh đã định, bốn phương cũng bình.
Vương Thông bền giữ cô thành.
Viện binh hai đạo Bắc đình tiếp sang.
Trời Nam đã có chủ trương,
Mà cơ chế thắng miếu đường cũng tinh.
Chi Lăng các đạo phục binh,
Liễu Thăng, Mộc Thạnh liều mình nẻo xa.
Vương Thông thế túng cầu hoà,
Quyền phong Trần Cảo gọi là quốc vương.
Ngôi thiêng sao xứng tài thường.
Trần công trẫm sát để nhường long phi.

2. Nhà Lê kiến quốc

Thuận Thiên niên hiệu cải đề,
Non sông mới thuộc về Lê từ rầy,
Quan danh, quân hiệu mới thay,
Bản đồ đổi lại huyện này, phủ kia.
Dựng nhà học, mở khoa thi,
Triều nghi, quốc luật một kỳ giảng tu
Mười năm khai sáng cơ đồ,
Sáu năm bình trị quy mô cũng tường.
Thái Tông rộng mở khoa trường,
Lập bia tiến sĩ trọng đường tư văn.
Chín năm noi nghiệp cơ cần,
Viễn di mến đức, cường thần sợ uy.
Tuổi xanh hoang túng nhiều bề,
Vườn xuân lắm lúc say mê vì tình.
Đông tuần về đến Bắc Ninh,
Riêng cùng Thị Lộ quên mình bởi ai?
Nhân Tông tuổi mới lên hai,
Quyền trong mẫu hậu, chính ngoài thần công.
Mười năm một hội đại đồng,
Văn mô rạng trước, vũ công phục ngoài.
Đánh Chiêm Thành, cắt Bí Cai,
Đổ Bàn, Cổ Luỹ các nơi hướng tiền.

3. Lê Nghi Dân cướp ngôi

Diên Ninh vừa độ trung niên,
Nhân Tông tuổi cả mới lên ngự trào.
Nghi Dân cốt nhục nỡ nào,
Tiềm mưu đêm bắc thang vào nội cung
Mẹ con đương thủa giấc nồng,
Hồn tiên liều với gian hùng một tay.
Nghi Dân chuyên tiếm từ đây,
Lương tâm đã dứt, ác cai lại nồng.
Đình thần nghị tội truất phong,
Rước Gia vương, ngự đền rồng cải nguyên.

4. Thời kỳ toàn thịnh: Lê Thánh Tông

Thánh Tông cốt cách thần tiên,
Lại thêm kinh thánh truyện hiền gia công,
Quốc âm, Đường luật tinh thông,
Thiên văn, toán pháp, binh nhung cũng tường.
Tài cao mại, đức thù thường.
Kiến văn đã rộng, thi trương cũng già,
Ba năm lại mở một khoa,
Tân hưng, đại tị theo nhà Thành Châu,
Nhạc âm, lễ chế giảng cầu,
Quan danh, phục sắc theo trào (triều) Đại Minh.
Mở Quảng Nam, đặt Trấn Ninh
Đề phong muôn dặm uy linh ai bì.
Kỷ công núi có Đá bia,
Thi văn các tập “Thần khuê” còn truyền.
Thừa diêu lại có con hiền,
Hiến Tông nhân thứ rạng nền tiền huy.

5. Nhà Lê bắt đầu suy

Túc Tông số lẻ vận suy,
Để cho Uy Mục thứ chi nối đời.
Đêm ngày tửu sắc vui chơi,
Tin bè ngoại thích hại người từ thân.
Văn Lang xướng suất phủ quân.
Thần Phù nối áng phong trần một phương.
Giản Tu cùng phái ngân hoàng,
Vào Thanh hợp với Văn Lang kết thề.
Đem binh vây bức đô kỳ,
Quỷ vương khuất mặt, quyền về Trư vương.
Lại càng dâm ngược kiêu hoang.
Trăm gian, nghìn nóc, cung tường xa hoa.
Lại càng bác tước họ nhà.
Cành vàng lá ngọc đều là điêu linh.

6. Loạn Trần Cảo và Trịnh Duy Sản

Phương ngoài Trần Cảo lộng binh,
Mà trong Duy Sản mống tình bạn quân.
Đem binh vào cửa Bắc Thần,
Bích Câu một phút mông trần bởi ai.
Giềng Lê khi đã đổi dời,
Mặc tay Duy Sản đặt người chủ trương
Đã tôn con Mục Ý Vương,
Lại mưu phù lập Chiêu Hoàng cớ sao?
Thị thành vừa lúc xôn xao,
Lại đưa xa giá ruổi vào cõi Tây,
Lòng trời khử tật mới hay,
Giết Duy Sản lại mượn tay giặc Trần.
Tướng tài còn có Trần Chân,
Nguyệt giang chống với giặc Trần mấy phen
Nguỵ Trần vào cứ Đồng Nguyên,
Truyền ngôi con cả, cải nguyên Tuyên Hoà,
Cạo đầu vào cửa Thích già,
Y quy nương bóng Di đà độ thân.

7. Chính quyền tan rã

Trời sinh ra hội phong trần,
Mạc Đăng Dung lại cường thần nổi lên.
Trần Chân tay giữ binh quyền,
Trên ngờ thế cả, dưới ghen tài lành
Tiếc thay có tướng can thành,
Tin sàm mà nỡ dứt tình chẳng tha.
Vì ai gây gỗi oan gia,
Để cho Nguyễn Kính lại ra báo thù.
Kinh sư khói lửa mịt mù.
Xe loan ra cõi Bảo Châu tị trần.
Nguyễn Sư cũng đảng nghịch thần,
Nửa năm phù lập hai lần quốc vương.
Ngàn Tây một cõi chiến trường,
Phó cho Mạc suý sửa sang một mình.

8. Mạc Đăng Dung chuyên quyền

Đăng Dung cậy có công danh,
Thuyền rồng, tán phượng lộng hành sợ chi.
Chiêu Tông gặp lúc hiềm nghi,
Nửa đêm lén bước chạy về Tây phương.
Đăng Dung lập lại Cung hoàng,
Hành cung tạm trú Hải Dương cõi ngoài.
Xe loan về đến kinh đài,
Sẵn sàng thiền chiếu ép bài sách phong.
Hoạ tâm từ ấy càng nồng
Lương Châu, Tây Nội cam lòng cho đang.

Hồi 15 – Nhà Mạc (1527 – 1592)

1. Ngoại giao và nội chính của Mạc Đăng Dung

Mạc rầy rõ mặt tiếm cường,
Thăng long truyền nước, Nghi Dương dựng nhà.
Dỗ người lấy vẻ vinh hoa,
Nhưng lòng trung nghĩa ai mà sá theo.
Cầu phong sai sứ Bắc triều,
Dâng vàng, nộp đất nhiều điều dối Minh.
Lê thần có kẻ trung trinh,
Trịnh Ngung sang đến Bắc đình tỏ kêu.
Minh tham lễ hậu của nhiều,
Phụ tình trung nghĩa, quên điều thị phi.
Đăng Dung thoả chước gian khi,
Tuổi cao rồi lại truyền về Đăng Doanh.
Mã giang đầu xướng nghĩa thanh,
Gần xa đâu chẳng nức tình cần vương.
Được thua mấy trận chiến trường.
Nghìn thu tiết nghĩa đá vàng lưu danh.

2. Nguyễn Kim khởi nghĩa phù Lê

Cành Lê có độ tái vinh,
Xui nên tá mệnh trời sinh thánh hiền.
Đức vua Triệu tổ ta lên,
Cất quân phù nghĩa giúp nền trung hưng,
Sầm châu ỷ thế nguồn rừng,
Mười năm khai thác mấy từng nước non,
Dù khi đỉnh tộ suy mòn,
Cương trù chưa nát vẫn còn tôn Lê.
Trang Tông lưu lạc tìm về,
Chia binh Thuý Đả, mở cờ Ai Lao.
Lôi Dương một trận binh giao,
Phá tan nghịch đảng tiến vào Nghệ An
Cỏ hoa mừng rước xe loan,
Thổ hào ứng nghĩa dân gian nức lòng,
Tây đô quét sạch bụi hồng,
Dặm tràng thẳng trỏ ngọn đòng tràng khu
Hẹn ngày vào tới Đông đô,
Một hai thu phục cơ đồ thủa xưa.
Độc sao hàng tướng tiến dưa!
Trước dinh Ngũ trượng bỗng mờ tướng tinh.

3. Trịnh Kiểm tiến quân ra Bắc

Tiếc thay công nghiệp thuỳ thành,
Để cho Trịnh Kiểm thay mình thống quân
Sáu năm vừa hội hanh truân,
Đỉnh hồ đâu đã đến tuần mây che.
Trung Tông nhờ cậy dư uy,
Mạc thần mấy kẻ cũng về hiệu trung.
Biện dinh quân mạnh, tướng hùng,
Bốn phương hào kiệt nức lòng y quang.
Đông kinh trỏ ngọn việt vàng,
Phúc Nguyên Mạc chúa chạy sang Kim thành.
Thần phù thuyền giã lênh đênh,
Lại còn Kính Điển đeo tình quấy trêu.
Quan binh theo ngọn thuỷ triều,
Duyên giang một trận, nước bèo chảy tan.
Anh Tông nối nghiệp gian nan,
Tây đô một giải giang san cõi nhà.
Mạc vào xâm nhiễu Thanh Hoa,
Thái sư Trịnh Kiểm lại ra tiễu bình.

4. Nguyễn Hoàng vào Hoá Châu

Hoá Châu có đất biên thành,
Bốn bề sơn hải trời dành kim thang.
Trịnh công tâu với Lê hoàng,
Chọn người ra giữ một phương thành dài.
Bản triều Thái Tổ hùng tài,
Gióng cờ ra trấn cõi ngoài từ đây.
Việt mao khi đã đến tay,
Hoành Sơn một giải mới gây cơ đồ.

5. Trịnh Mạc phân tranh

Mặt trong đành đã khỏi lo,
Trịnh công chuyên ý trì khu cõi ngoài.
Quận Gia, quận Định mấy người,
Hưng, Tuyên binh hợp các nơi thêm dầy.
Mạc dần suy yếu từ nay,
Vận Lê xem đã đến ngày trùng hanh.
Đem quân về giữ Tây kinh,
Bể Thanh lại lặng tăm kình như không.
Nhân khi Mậu Hợp ấu trùng,
Mở đường Phố Cát, qua sông Bồ Đề.
Mạc vào, quân lại rút về,
Mạc lui, quân lại bốn bề kéo ra.
Tuyết sương trăm trận xông pha,
Trịnh công vì nước cũng đà cần lao.

6. Trịnh Tùng chấp chính

Tuổi già vừa giải tiết mao,
Con là Trịnh Cối lại vào đổng nhung.
Kiêu hoang quen thói con dòng,
Binh quyền lại để Trịnh Tùng thay anh,
Cối, Tùng một gốc đôi cành,
Vinh khô đã khác, ân tình cũng khuê,
Anh em mâu thuẫn hai bề,
Thừa cơ Mạc lại kéo về nội xâm.
Mạc lui, Tùng mới manh tâm,
Ngoài trương thanh thế, trong cầm quyền cương.
Lại mưu tàn hại trung lương,
Vàng đưa ngoài cửa, búa trương dưới màn.
Tạ tình phụ tấm niềm đan,
Đem Lê Cập Đệ giết oan nỡ nào!
Bằng không nổi trận ba đào,
Để cho xa giá chạy vào Nghệ An.
Giá Điền vừa mới hồi loan,
Lôi Dương đã nổi tiếng oan giữa vời.
Thế tông con thứ nối đời,
Trịnh Tùng phù lập cùng loài giả danh.

7. Trịnh Tùng diệt Mạc

Cõi ngoài giặc Mạc tung hoành,
Bắc Hà cát cứ mấy thành nhân dân.
Giáng uy nhờ có lôi thần,
Nhân khi Mậu Hợp đến tuần thiên tru
Mạc thần mấy kẻ vũ phu,
Sao mai lác đác, lá thu rụng rời.
Xuất binh vừa gặp cơ trời,
Đường ghềnh len lỏi ra ngoài Thiên quan.
Tràng khu một lối duyên san,
Huyện châu gió lướt, Tràng An lửa nồng.
Bỏ thành, Mạc chạy qua sông,
Đuổi sang Phượng Nhỡn đường cùng mới thôi,
Kể từ Nguỵ Mạc tiếm ngôi,
Năm đời truyền kế sáu mươi năm chầy.
Trần ai quét sạch từ rày,
Về kinh ban yến, tiệc bầy thưởng công.

Hồi 16 – Lê Trung Hưng, vua Lê chúa Trịnh (1593 – 1729)

1. Giao thiệp buổi đầu với nhà Minh

Mới sai sứ giả cầu phong,
Nghe gièm, Minh hãy còn lòng tin nghi.
Sai quan hội khám một kỳ,
Phong làm Đô thống, cơ mi gọi là!
Phùng Khoan sứ tiết cũng già,
Biểu từ biện chiết thật đà thiết minh.
Mấy lời ôn dụ đinh ninh,
Phong vương còn đợi biểu tinh có ngày.

2. Trịnh Tùng xưng chúa

Hổ lui, lang tới khéo thay!
Mạc kia vừa dẹp, Trịnh này lại lên.
Tùng xem căn cứ đã bền,
Công danh càng thịnh, uy quyền càng cao.
Rỡ ràng ngọc sách, tinh bao,
Gia phong Nguyên suý, dự vào sủng chương
Bình an lại tiến tước vương,
Gầy nên tiếm thiết, mở đường khải du.
Kính Tông còn độ ấu cô,
Đống lương ai kẻ xanh phù vạc Lê?
Triều thần những lũ Bùi Khuê,
Lại tìm Mạc nghiệt theo về Kính Cung.
Nghi Dương tro tắt lại nồng,
Thị thành nổi áng bụi hồng bởi ai?
Nhân khi giá ngự ra ngoài,
Thừa hư Mạc lại vào nơi đô thành.
Quan quân ra đánh lại bình,
Thặng dư mới phát tự Thanh ngự về.
Chông gai tuy sạch mọi bề,
Mà trong quyền cả chuyên về một tay.
Bốn phương tai biến đã đầy,
Đầm khô, núi lở, cát bay mù trời
Chẳng qua trăm sự tại người,
Gẫm cơ hưu cữu biết đời thịnh suy.
Súng đâu phục trước đường đi,
Để cho Trịnh chúa lại nghi Lê hoàng.
Sinh con gặp đứa vô lương,
Châu liên sao nỡ quên đường quân thân?

3. Trịnh Tráng tăng quyền phủ chúa

Thừa gia theo lối cường thần,
Vua Lê, chúa Trịnh nhân tuần đã quen,
Thần Tông vừa mới cải nguyên,
Sách phong Trịnh Tráng đã ban từ giờ.
Thành đô quyền trọng hơn xưa,
Nhà Lê cũng một giải thừa mà thôi!
Nước nhà đang buổi yên vui,
Xin vua xuống chiếu truyền ngôi nhẽ gì?
Chẳng qua là dạ gian khi,
Làm cho rõ mặt phúc uy tự nhà.
Chân Tông tuổi mới mười ba,
Hững hờ quyền chúa, ngôi cha mặc lòng.
Quốc vương Minh mới cải phong,
Bảy năm lịch số vừa chung một đời.
Xoay quanh mới tỏ đạo trời,
Báu thiêng đem lại cho người truyền gia
Thần tông thay giữ nghiệp nhà,
Thượng hoàng lại đổi mặt ra tân hoàng.
Thờ ơ cờ đạo nhà vàng,
Chính quyền phó mặc Trịnh vương, biết gì.
Nhà Minh thuở ấy đã suy,
Mượn binh lại sắp nhờ uy cường thần.
Sắc phong chiếu dụ ân cần,
Phó vương Trịnh lại thêm phần tôn vinh.
Cả giàu sang, lớn quyền hành,
Giang sơn chung một triều đình chia đôi.

4. Trịnh Tạc đánh Nguyễn và Mạc

Tiếm phong, Trịnh Tạc nối ngôi,
Tước vương mình lại tài bồi cho con.
Càn cương ngày một suy mòn,
Cuộc đời chìm nổi, ai còn hiệu trung,
Bản triều mở dấu Kỳ phong,
Thánh thần truyền dõi một lòng tôn Lê.
Quyền gian giận Trịnh nhiều bề,
Sắc sai Chiêu, Thuận khắc kỳ tiến chinh.
Sáu năm rồi mới bãi binh,
Luỹ dài còn dấu uy linh để truyền.
Vận Lê còn buổi truân chuyên,
Huyền tông thơ ấu để quyền Tây vương.
Đẳng uy đã biến lễ thường,
Vào chầu không lạy, miếu đường có ai?
Thiên nhan lại muốn sánh vai,
Giường ngồi đem đặt bên nơi ngự tiền.
Dọc ngang dưới phủ trên đền,
Mống tình cải bộ gây nền tranh vương.
Vũ công lại muốn phấn dương,
Đem quân đánh Mạc lại sang Cao Bình.
Mạc vào cầu viện Yên Kinh,
Phong làm Đô thống tung hoành cõi xa.
Bốn châu riêng một sơn hà,
Danh tuy phụ Hán, thực là thê Ngô.
Gia tông vừa nối cơ đồ,
Xe loan đã giục trì khu ra ngoài.
Phòng biên đã có tướng tài,
Quân ta một trận, luỹ dài phá tan,
Mã đầu đã trở quy an,
Hà trung Trịnh lại đặt quan lưu đồn.

5. Trịnh Căn và nhà Thanh

Về nhà lập lại Trịnh Côn (Căn),
Nam vương theo lối quyền môn một dòng.
Đêm ngày bí các thong dong,
Văn thần thay đổi vào trong chực hầu,
Quốc Trinh tham tụng ở đầu,
Bởi sao nên nỗi gây thù ưu binh?
Hy Tông hoàng đệ thay anh,
Ngôi không luống giữ, quyền hành mặc ai!
Bấy lâu chiếm giữ cõi ngoài,
Hãy còn Mạc nghiệt mấy đời đến nay.
Di thư sang với Quảng Tây,
Một lần hội tiễu từ này chạy xa.
Quân Thanh xâm chiếm đất ta,
Vị Xuyên, Bảo Lạc, Nà Oa, Lộc Bình.
Thổ quan lại có tư tình,
Tham vàng đem giới kệ chuyển di.

6. Triều thần nhà Lê

Bên ngoài xâm tước nhiều bề,
Ở trong chính sự chỉnh tề được bao?
Lễ gì hơn lễ bang giao,
Mà cho quan thị đứng vào đầu ban.
Thế mà những kẻ cư quan,
Cũng đành ngoảnh mặt cho toàn tôn vinh.
Tại triều mấy kẻ trâm anh,
Nguyễn Đang, Đồng Trạch công thanh một đường.
Thế Vinh tài học ưu trường,
Nguyễn Hành, Hà Mục văn chương cũng già.
Bởi ai thiên hạ âu ca,
Chẳng quan tham tụng Vạn Hà là chi?
Bởi ai thiên hạ sầu bi,
Chẳng quan tham tụng Lê Hy hãnh thần?
Tính đi nghĩ lại xa gần,
Nhiều phần vì Trịnh, ít phần vì Lê.
Mồi giàu sang đã say mê,
Lấy ai chỉ trụ làm bia trong đời!

7. Những việc cải cách về thời Trịnh Cương

Dụ Tông nối giữ ngôi trời,
Trịnh Cương chuyên chế theo loài cố gia
Lục phiên lại đặt tư nha,
Bao nhiêu tài phú đều là về tay.
Các quan trấn thủ mới thay,
Hưng Tuyên thống hạt từ rầy chia hai.
Vũ thần mỗi trấn một người,
Để cho vững thế mặt ngoài phiên ly.
Lấy năm điều khảo trấn ti,
Cứ trong điến tối mà suy hay hèn.
Thẩm hình đặt viện phủ tiền,
Sai quan tra kiện thay quyền pháp ti.
Vũ khoa mới đặt phép thi,
Hỏi đường thao lược, thử nghề dao cung.
Ba trường phúc thí đã xong,
Đề danh tạo sĩ bảng rồng cũng vinh.
Kén thêm tứ trấn binh đinh,
Vệ quân mới đặt sáu dinh từ rầy.
Công tư điền thổ xưa nay,
Sai quân khám đạc san tay dân cùng.
Tuần hành có sứ khuyến nông,
Giữ gìn đê lộ, xét trong dân tình.
Đem thư biện với nhà Thanh,
Mỏ đồng, mỏ kẽm lại giành về ta.
Lập bia trên Đổ chú hà,
Giới cương tự đó mới là phân minh.
Quy mô cũng muốn sức bình,
Mà lòng lăng tiếm tự mình ra chi?
Lập phủ đường ở Cổ Bi,
Toan đem kinh quốc dời về cố hương.
Đông cung đã lập Duy Tường,
Bỗng không lại đổi Duy Phường cớ sao?

Hồi 17 – Nhà Lê suy, vua Lê chúa Trịnh (1729 – 1782)

1. Chính sách đồi bại của Trịnh Giang

Trịnh Giang quen lối gian hào.
Truất ngôi Vĩnh Khánh hãm vào tội nhân.
Thuần Tông đặt bỏ mấy lần,
Phúc uy mặc sức cường thần mới ghê.
Lý Tông còn tuổi hài đề
Danh tuy chính thống, quyền về phó vương.
Trịnh càng dâm ngược kiêu hoang,
Đêm ngày luống những tham đường vui chơi.
Dấu xe giong ruổi quanh trời,
Sửa sang cảnh Phật, vẽ vời động tiên.
Quỳnh Lâm, Hương Hải, Hồ Thiên,
Của thiên hạ chất cửa thiền biết bao?
Kho tàng ngày một tiêu hao,
Bán khoa, mua tước tiền vào sáu cung
Phó vương còn chửa cam lòng,
Thượng vương lại giả sắc rồng nhà Thanh.
Tội trời kể đã quánh doanh,
Sao cho nghiệp báo đến mình mới thôi.
Bỗng đâu một tiếng thiên lôi,
Thất kinh ngơ ngác như người chứng điên.
Ở hang lại gọi cung tiên,
Để đoàn nội thụ chuyên quyền lộng uy.

2. Sự loạn lạc ở Bắc Hà

Lòng người đâu chẳng bạn ly,
Ếch kêu, ác họp thiếu gì gần xa!
Sơn Nam có giặc Ngân già,
Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển ấy là giặc Đông.
Sơn Tây: nghịch Tế, nghịch Bồng,
Động ngoài ba mặt, nhộn trong bốn bề.
Nằm hang Trịnh có biết gì!
Quận Bào, quận Thực đua bì tranh công.

3. Trịnh Doanh và Lê Hiển Tông

Phó vương quen lối nhà dòng,
Chẳng phò Trịnh thị sao xong việc đời?
Nguyễn công Quý Cảnh mấy người,
Vào trong định sách ra ngoài diệu binh.
Cùng nhau phù lập Trịnh Doanh,
Thái vương Trịnh lại tôn anh làm vì.
Sai quan kinh lược bốn bề,
Khải ca mấy khúc đều về tấu công.
Cơ mưu Trịnh cũng gian hùng,
Nghĩ mình chuyên tiếm ắt lòng ai ưa.
Có Lê mới có đến giờ,
Phải cầu hiền đức để nhờ phúc chung.
Kìa người mắt phượng râu rồng,
Duy Diêu vốn cũng là dòng thần minh.
Hạ đài khuất bóng tiền tinh,
Khuôn thiêng còn để một cành phúc chi.
Hay đâu cầu ứng cũng kỳ,
Bỗng xui Trịnh chúa tạm di ra ngoài.
Vũ công một giấc hiên mai,
Mơ màng dường thấy phong tài đế vương.
Tinh kỳ nhã nhạc lạ nhường,
Thái bình nghi vệ rõ ràng chẳng ngoa.
Sáng mai vừa mới tỉnh ra,
Duy Diêu xảy đến chơi nhà lạ sao?
Thấy người mà nghiệm chiêm bao,
Mới hay trẫm triệu ứng vào tự nhiên.
Nghe lời Trịnh mới phù lên,
Hiển Tông từ ấy chịu truyền nối ngôi.

4. Trịnh Doanh và Trịnh Sâm dẹp loạn

Vận Lê đến lúc suy đồi,
Chắp tay rủ áo lặng ngồi mặc ai.
Gặp khi nhiều việc chông gai,
Loạn trong ba phủ, giặc ngoài bốn phương
Văn thần có kẻ phấn dương,
Phạm công Đình Trọng gồm đường lược thao.
Phao sơn trỏ ngọn cờ đào,
Nguyễn Cừ đã phá, Nguyễn Cầu cũng tan.
Nguyễn Phương cứ Độc Tôn sơn,
Tuyên, Hưng là đất, lâm man là nhà.
Trịnh vương quyết chí xông pha,
Huyệt sào quét sạch, binh xa mới về.
Quyền gian kế tập quen lề,
Trịnh Sâm lại cũng sính nghề vũ công.
Mạnh Thiên hang thẳm núi cùng,
Hãy còn Hoàng Chất lâm tùng ẩn thân.
Sai Đoàn Nguyễn Thục đem quân,
Cùng rừng săn thú một lần mới thanh.
Lại toan dẹp cõi Trấn Ninh,
Chỉn e địa thế, dân tình chưa quen.
Địa đồ ai khéo vẽ nên,
Thu ngoài man cảnh về bên khuyết đình.
Gần xa đã tỏ tình hình,
Mới sai chư tướng đề binh đánh liền,
Chiềng quang thành luỹ vững bền.
Bồ chông núi cả cũng nên hiểm trời.
Biến đâu trửu dịch lạ đời!
Nửa đêm mở luỹ cho người tiến sang.
Bởi mưu Ngũ Phúc chiêu hàng
Nguyễn Thiều trong lại đem đàng nội công.
Vậy nên Duy Mật thế cùng,
Hoả viêm một phút cô dung cũng liều.

5. Trịnh Sâm đánh chúa Nguyễn

Cậy công Trịnh mới thêm kiêu,
Càng đầy đức sắc, càng nhiều ác cai,
Vu oan nỡ đặt nên lời,
Để cho thái tử thiệt tài thông minh.
Phúc uy chuyên tiếm một mình.
Mạo giày điên đảo, nghĩa danh còn gì?
Thế mà vạc cả duy trì,
Bởi tiên liệt thánh Nam Kỳ nối ngôi.
Nền danh phận, đạo vua tôi,
Gian hùng mất vía đứng ngồi sao an.
Bây giờ có giặc Tây san,
Ở trong lại có Phúc Loan lộng hành.
Thừa cơ Trịnh mới sai binh,
Đưa thư vào trước kể tình ngoại thân.
Rằng: “Toan trừ đứa lộng thần,
Cùng nhau quét sạch bụi trần cõi Tây.”
Lá cờ theo ngọn gió bay,
Thừa hư trực để vào ngay nhà Hồ.
Phúc Loan đem lại hiến phù,
Trịnh binh nhân thế tràng khu dưới thành.
Đôi bên lập luỹ phân dinh,
Trầm than mấy trận quan binh hiểm nghèo.
Độ quân nó bắc phù kiều,
Thuý hoa phất phới qua đèo Hải vân.
Quảng nam đồn trú lục quân,
Trong Tây ngoài Trịnh, xa gần với ai?
Thuyền rồng vào bến Đồng Nai,
Long hưng còn đợi cơ trời có khi.

6. Trịnh Sâm hỏng mưu thoán đoạt

Gió thu lần úa cành Lê,
Ác bay chưa biết đỗ về nhà ai.
Nguỵ Tây gắm ghé mặc ngoài,
Trịnh Sâm trong lại sai người cầu phong.
Vũ Trần Thiệu kể là trung,
Mặt tuy ứng mệnh, nhưng lòng vẫn kiên.
Động Đình xa vượt bè tiên,
Trên trời dưới nước tấm nguyền sạch trong.
Biểu tiên phó ngọn đuốc hồng,
Ngậm cười thề với chén nồng, cho xuôi.
Làm cho vỡ mật gian hồi,
Mà người chìm nổi trong đời thẹn riêng.

7. Đặng Thị Huệ lộng quyền

Xoay vần hay có khuôn thiêng,
Càng già cỗi ác, càng nghiêng sóng tình.
Tuyên Phi là gái khuynh thành,
Đem bề ân ái chuyên vành phúc uy.
Cướp quyền đích trưởng dựng bè đồng mông,
Yêu cơ khí diễm càng nồng,
Khiến nên Trịnh Khải sinh lòng âm mưu.
E khi sự thế đáo đầu,
Ước cùng các trấn đều vào giúp công.
Điển thư có đứa hầu trong,
Tin lòng nên mới ngỏ cùng Ngô Nhâm.
Người sao chẳng chút lương tâm!
Khoa danh đã nhục, quan trâm cũng hoài!
Lòng riêng tham đắm mùi đời,
Phụ tình thầy tớ, cãi lời phụ thân.
Quyết đem sự ấy củ trần,
Làm cho Trịnh Khải một lần châu liên.

Hồi 18 – Cuối đời Nhà Lê, vua Lê chúa Trịnh (1782 – 1786)

1. Loạn kiêu binh ở kinh thành

Sâm già, Cán lại thiếu niên
Phó cho Hoàng Bảo giúp nên sao đành?
Tuyên phi học thói buông mành,
Trong dưa dưới mận nhân tình đều nghi.
Ở trong Khải mới thừa ky,
Ngoài quân ba phủ nhân khi lộng hành.
Cùng nhau sáp huyết hội minh,
Trống hồi chửa dứt, các dinh đã vào.
Cửa thành binh lửa xôn xao,
Một cơn cỏ nội cá ao còn gì!
Cán vong, Khải lại tiếm vì,
Phủ binh từ ấy nhiều bề tuyên kiêu,
Hung hăng ngoài phố trong triều,
Phá nhà cướp của, dập dìu vào ra.
Đầy đường những tiếng oán ta,
Văn thần, võ tướng đều là bó tay.

2. Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ nhất

Tiến đồn nghe đến giặc Tây,
Tiềm mưu còn rắp đợi ngày xuất chinh.
Có tên Nguyễn Chỉnh tài danh,
Nhân khi tao loạn đem mình hàng Tây.
Cơ quan mưu lược vẽ bầy,
Cam lòng nước cũ, mượn tay người ngoài.
Tây Sơn biết tỏ một hai,
Chia quân thuỷ bộ quyết bài kéo ra.
Ngọn cờ trổ lối sơn pha,
Hải vân đồn trấn, đâu là chẳng tan?
Cánh buồm đè lớp cuồng lan,
Cát Dinh, Động Hải quân quan chạy dài.
Nguỵ Tây còn sợ mặt ngoài,
Rắp ngăn Tràng Luỹ tính bài phân vương
Khéo đâu Chỉnh lại đưa đường,
Rằng: “Trong sự thế chi nhường cho ai?
Tướng công uy nhức bên trời,
Này cơ phát trúc hẳn mười chẳng xa.
Bấy lâu họ Trịnh gian tà,
Binh kiêu, dân oán ắt là bại vong.
Uy trời ai giám tranh phong,
Hãy xin thừa thắng ruổi giong cõi ngoài.”
Phải chăng Huệ mới nghe lời,
Lại cho Nguyễn Chỉnh, lĩnh bài tiên phong.
Lá buồm theo ngọn gió đông,
Vượt qua cửa bể vào sông Vị Hoàng.
Quân dung, đâu mới lạ nhường!
Mão mao, áo đỏ chật đường kéo ra.

3. Chúa Trịnh Khải bị bắt

Bụi hồng mờ mịt kinh hoa,
Lục Môn, Thuý Ái gần xa tan tành.
Quyết liều Trịnh mới thân chinh,
Tây luông giáp trận quân mình đảo qua
Nài voi toan trở lại nhà,
Cờ Tây Sơn đã mở ra đầy thành.
Qua Hạ Lôi rắp lánh mình.
Giữa đường gặp đứa phụ tình bắt ra.

4. Nguyễn Huệ trả quyền Lê Hiển Tông

Nguỵ Tây vốn kẻ hung tà,
Còn e người chốn Bắc Hà khó xong.
Phù Lê có biểu mật phong,
Mặt ngoài trung nghĩa, trong lòng gian phi.
Hiển tông tuổi tác đã suy,
Nghe tin binh biến biết gì là đâu.
Vừa khi Nguyễn Huệ vào hầu,
Vấn an lại kể gót đầu đinh ninh.
Rằng: “Nghe họ Trịnh cường hoành,
Vậy đem quân nghĩa quét thanh bụi trần.
Chủ trương mừng thấy đông quân.
Thái bình cây cỏ được nhuần hơi mưa.”
Phúc lành chúc chữ cửu như.
Của tin mấy quyển đồ thư dâng vào,
Bệ rồng ban chiếu tinh bao,
Gia phong Nguyễn Huệ đương trào quốc công.
Ngọc Hân vừa trạc đào hồng,
Ép duyên kim cải kết lòng sài lang,
Đương cơn đòng bác ngổn ngang,
Thực hư chưa tỏ, biến thường ai tin.
Hơi tàn gần trở gót tiên,
Lại vời Nguyễn Huệ gửi quyền quốc gia.
Một hai xin trở về nhà,
Bóng đèn, tiếng búa giám là di duyên.

5. Quân Tây sơn rút về Nam

Bảo thành kinh lý đã yên,
Ngôi cao phó lại cháu hiền thừa gia.
Duy Kỳ nối giữ nghiệp nhà.
Cải nguyên Chiêu Thống mới là sơ niên.
Huệ còn lưu ở Long Biên,
Anh là Nguyễn Nhạc theo miền lại ra.
Rước mời ngày tiếp đôi ba,
Bệ từ, Nhạc mới lân la tự tình
“Đất, dân đâu cũng triều đình,
Giao lân rồi sẽ cất mình Nam quy.”
Nửa đêm ám hiệu cuốn kỳ
Bao nhiêu tài hoá chuyên về sạch không.
Bỏ Nguyễn Chỉnh ở Thăng Long.
Cũng toan cắt cánh mở lồng với ai.
Về quê Chỉnh mới giả bài,
Rằng vâng mật chỉ hồi sai đất nhà.
Mộ quân hương dõng đem ra,
Ngoài là chống giặc, trong là giữ kinh.

6. Triều đình vua Lê Chiêu Thống

Cựu thần mấy kẻ công khanh,
Thoái hưu để việc miếu đình mặc ai?
Tân khoa còn có một hai,
Bùi Dương, Trần Án cũng người trung trinh.
Cùng nhau phụng sắc triệu binh,
Thổ hào củ tập vào kinh hộ tuỳ.
Phân vân tranh lập nhiều bề,
Kẻ phò Trịnh Lệ, người suy Trịnh Bồng.
Yến đô lại cứ tập phong,
Những mưu phò Trịnh, quên lòng tôn Lê.
Mậu Xưng, Tích Nhưỡng kể chi,
Phùng Cơ còn biết thị phi nhẽ thương,
Trách thay Trọng Tế họ Dương,
Cũng trong khoa bảng, cùng phường đai cân.
Sao không biết nghĩa quân thần,
Bầy mưu phế lập sắp quân vây thành.
Non sông còn mặt triều đình,
Bạc đen xem thấy nhân tình mà ghê.

7. Nguyễn Hữu Chỉnh chuyên quyền

Lê hoàng căm giận nhiều bề,
Mật thư sai sứ đưa về Nghệ An.
Chỉnh xưa tuy giả mưu gian,
Được thư rầy mới nở gan anh hùng.
Hịch bay đâu cũng nức lòng,
Tứ thành Tứ đột quân ròng hơn muôn,
Dặm trường thẳng ruổi chinh an
Nghệ, Thanh quét sạch mấy đoàn kiến ong,
Yến đô sức yếu thế cùng,
Theo Dương Trọng Tế qua vùng Bắc Ninh.
Đại quân tiến đến kinh thành,
Long tân ngự duyệt, đại đình thưởng công.
Loan thư ban trước thềm rồng
Cha phong Bằng quận, con phong tước hầu.
Trăm quan ngôi thứ ở đầu,
Cánh vây sum họp, phủ lầu nghênh ngang.

Hồi 19 – Nhà Nguyễn, Tây Sơn (1787 – 1802)

1. Quân Tây Sơn ra Bắc lần thứ hai

Bốn phương lại động khói lang,
Nguỵ Tây riêng mặt bá vương một trời,
Nhạc, Quy Nhơn; Lữ, Đồng Nai;
Quảng Nam, Nguyễn Huệ; trong ngoài chia nhau.
Nhân cơ lại dấy qua mâu,
Văn Nhâm vâng lệnh quân phù kéo ra.
Qua Nghệ An, đến Thanh Hoa,
Thổ sơn giáp trận Trinh Hà áp binh.
Giặc ra đến đất Ninh Bình,
Chỉnh đem hai vạn tinh binh quyết liều.
Một đêm thuyền trái buồm xiêu,
Vì con sơ suất, đền điều thua công.

2. Lê Chiêu Thống chạy

Văn Nhâm kéo đến Thăng Long,
Lê Hoàng thảng thốt qua sông Nhị Hà.
Bắc ninh cũng đất dân nhà,
Bạc thay Cảnh Thước sao mà bất nhân!
Nỡ nào quên nghĩa cố quân,
Đóng thành không rước, sai quân cướp đường.
Ngự bào cũng nhuộm mầu sương,
Nguyệt giang, Mục thị nhiều đường gian nguy.
Tây binh thừa thế cùng truy,
Cha con Nguyễn Chỉnh một kỳ trận vong.
Bắt phu canh giữ bên sông,
Kìa Dương Đình Tuấn cũng mong phù trì.
Chước đâu phản gián mới kỳ,
Để cho xa giá chạy về Chí Linh.
Vội vàng chưa định hành dinh,
Mà Đinh Tích Nhưỡng nỡ tình đuổi theo!
Giải vây lại có thổ hào,
Lũ Hoàng Xuân Tú cũng đều cần vương,
Thừa dư vừa đến Thuỷ Đường,
Kẻ về tấu tiệp, người sang đầu thành.
Bỗng đâu thuyền bạt vào Thanh,
Nước non man mác, quân tình ngẩn ngơ.

3. Nguyễn Huệ đặt chức Giám quốc ở Bắc Hà

Văn Nhâm tự ấy lại giờ,
Vỗ về sĩ tốt, đợi chờ chúa công.
Huệ sao tàn nhẫn cam lòng,
Một gươm nỡ quyết chẳng dong tướng thần.
Mới đòi hào mục xa gần,
Xem nhân tình có mười phần thuận không?
Nguyễn Huy Trạc cũng hào hùng,
Một thang tiết nghĩa quyết lòng quyên sinh.
Biết thiên hạ chẳng thuận tình,
Lập người giám quốc đem binh lại về.

4. Quân nhà Thanh sang nước ta

Lê hoàng truân kiển nhiều bề,
Mẹ con cách trở biết về nơi đâu?
Thái từ lạc tới Long Châu,
Thổ quan dò hỏi tình đầu thuỷ chung.
Cứ lời đạt đến Quảng Đông,
Gặp Tôn Sĩ Nghị cũng lòng mục lân,
Một phong biểu tấu chín lần,
Càn long có ý ân cần vì Lê.
Đền rồng ban ấn tử nê,
Đem quân bốn tỉnh trao về một tay.
Nam Quan thẳng lối đường may,
Tắt qua trấn Lạng, sang ngay sông Cầu.
Tập công phá trại Nội hầu,
Theo đường Kinh Bắc, tới đầu Nhị giang.
Rượu trâu đâu đã sẵn sàng,
Vua Lê mừng thấy đón đàng khao binh.
Tôn công quân lệnh túc thanh,
Tơ hào chẳng phạm, tấm thành cũng phu
Qua sông mới bắc cầu phù,
Tây luông quân đóng, Đông đô ngự vào.
Quốc vương sẵn ấn tay trao,
Truy tuỳ thưởng kẻ công lao nhọc nhằn.

5. Triều đình thời Lê mạt

Bao nhiêu hào kiệt xa gần,
Đua nhau đều đến cửa quân đầu thầm
Xưa sao vắng vẻ hơi tăm!
Rầy sao hiệp lực đồng tâm lắm người!
Viêm lương mới tỏ thói đời.
Dạ trong đã chán, mặt ngoài cũng khinh.
Song mà ỷ thế nhà Thanh.
Thờ ơ với kẻ nước mình mặc ai!
Cơ mưu những chắc lưng người.
Để cho đất nước trong ngoài mất trông!

6. Quang Trung đại phá quân Thanh

Quân Thanh đã được Thăng Long,
Một hai rằng thế là xong việc mình.
Dùng dằng chẳng chịu tiến binh,
Nhác đường phòng thủ, mống tình đãi hoang.
Nguỵ Tây nghe biết sơ phòng,
Giả điều tạ tội, quyết đường cất quân.
Dặm tràng nào có ai ngăn,
Thừa hư tiến bức đến gần Thăng Long.
Trực khu đến luỹ Nam Đồng,
Quan Thanh dẫu mấy anh hùng mà đang?
Vua Lê khi ấy vội vàng,
Cùng Tôn Sĩ Nghị sang đàng Bắc Kinh.
Qua sông lại sợ truy binh,
Phù kiều chém dứt, quân mình thác oan.

7. Cuộc lưu vong của Lê Chiêu Thống

Ngẩn ngơ đến ải Lạng Sơn,
Theo sau còn có quân quan mấy người.
Cầm tay Sĩ Nghị than dài,
Vì mình kiển bộ nên người luống công,
Nhẽ đâu lại giám bận lòng,
Xin về đất cũ để mong tái đồ.
Tôn công cũng có tiên trù,
Đã dâng một biểu xin cầu viện binh.
Quế lâm còn tạm trú mình,
Bỗng đâu nghe chiếu nhà Thanh triệu về.
Phụng sai có sứ hộ tuỳ,
Sự đâu lại gặp những bề trở nan.
Sứ thần là Phúc Khang An,
Đã e xa cách, tại toan dối lừa.
Dần dà ngày tháng thoi đưa,
Lê hoàng luống những đợi chờ Yên Kinh.
Tấc gang khôn tỏ sự tình,
Dẽ xem con Tạo giúp mình hay không?
Từ khi tam phẩm gia phong,
Mới hay Thanh đế cam lòng thế thôi!
Lỡ làng đến bước xa xôi,
Nhưng trong đạo chúa nghĩa tôi chẳng dời.
Lê Hân, Lê Quýnh mấy người,
Như Tòng, Ích Hiểu cũng lời thệ minh,
Tòng vong đều kẻ trung trinh,
Mã đồng khen cũng có tình tôn quân.
Vua Lê phút lánh cõi trần,
Non sông cách diễn mấy lần xa xa,
Bình Tây nhờ Thánh triều ta,
Kẻ gần an chốn, người xa tìm về,
Sang Thanh mấy kẻ theo Lê,
Còn ai cũng động lòng quê ngậm ngùi.
Vận Lê đến thế là thôi,
Ba trăm sáu chục năm rồi còn chi?

8. Tổng kết

Mới hay có thịnh, có suy,
Hang sâu, núi cả có khi đổi dời.
Trước sau tính lại trăm đời,
Có trời, có đất, có người chủ trương.
Khai tiên là họ Hồng Bàng,
Thuỵ thay, Triệu đổi thường thường suy di,
Rồi ra hợp hợp chia chia,
Trải Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê mấy đời,
Thiếu chi chuyện vãn đầy vơi!
Hiếm điều đắc thất, hiếm người thị phi!
Lại còn nhiều việc tín nghi,
Sự muôn năm cũ chép ghi rành rành.
Bút son vâng mệnh đan đình,
Gác lê lần giở sử xanh muôn đời.
Chuyện xưa theo sách diễn lời,
Phải chăng xin đã gương trời rạng soi.

 

Hien Bushell

Đất Nước Việt Nam Của Tui Ư?

 

Ảnh : Hien Bushell

Ngồi làm nail cho một cô khách quen bản xứ người New Zealand, cô ấy là giáo viên và nói. Bạn có thể kể cho tôi nghe về quê hương đất nước Việt Nam của bạn được chứ?

Mình nói: Đất nước Việt Nam của tôi ư?

Là một dân tộc đầy bất hạnh bởi những kẻ vô học, côn đồ, tham lam, bất lương và vô thần cai trị. Chúng xé ra bán rẻ từng mảnh đất của cha ông để lại mà không thương tiếc rồi tìm đường tháo chạy.

Là một dân tộc mà anh em đi vay mượn súng đạn của giặc Tàu để bắn giết nhau và thù hận kéo dài triền miên.

Là một đất nước đói nghèo lạc hậu phải đi ăn mày, bán sức lao động và làm nô lệ tình dục khắp thế giới.

Đất nước Việt Nam của tôi là các tầng lớp trí thức tiến sĩ, giáo sư, bác sĩ, kỹ sư, thầy giáo… ngủ mê, vô cảm và hèn hạ đến kì lạ.

Hồi nhỏ đi học, tôi được thầy cô dạy về dòng giống rồng tiên, về rừng vàng biển bạc, về chuyện Việt Nam từng thắng hai đế quốc.

Ngày đó, khi ngồi trên lớp tôi cũng có chút tự hào, hoà vào cái không khí tự hào của những mái đầu thơ dại.

Nhưng lúc về nhà nhìn xoong cơm với toàn khoai mì khô độn lẫn trong một ít gạo. Tôi lại nghĩ rằng chẳng lẽ đây là thứ thức ăn của dòng giống tiên rồng hay sao? Nếu vậy thì không có gì đáng để tự hào.

Cái suy nghĩ rất trẻ thơ ấy không bao hàm nhiều kiến thức cao siêu, nó chỉ đơn thuần đến từ cái nhu cầu phục vụ cho bao tử.

Rồi khi lớn lên một chút, chân vừa chạm đến “cửa trường cao” thì cũng là lúc tai, mắt mình phải nghe, nhìn toàn những điều xấu xa trong cuộc sống.

Có những đứa bạn đậu đại học không vì thi đủ điểm, mà nhờ gia đình nó có công cách mạng. Nhiều khoản tiền tôi phải đi làm thêm để đóng thì tụi nó được miễn vì ba nó là thương binh. Nhiều thầy cô đứng trên bục giảng nhưng kiến thức rất sơ sài, họ được đi dạy là do cơ cấu.

Rồi chạy điểm, đổi tình… những điều ấy khiến tôi khó hiểu nên quay lại tìm những vấn đề thuộc về lịch sử của Việt Nam.

Người ta nói: “Nếu anh bắn quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn anh bằng đại bác!”. Tuy nhiên tôi lại nghĩ rằng, nếu lịch sử không được nhìn bằng con mắt đa chiều thì người ta có lỗi với quá khứ nhiều hơn.

Từ đó tôi dốc công tìm hiểu về lịch sử bằng nhiều nguồn tư liệu khác. Và một sự thật đau đớn khi tôi nhận ra rằng người ta đã lừa dối tuổi thơ, và cả thời niên thiếu của tôi bằng một thứ lịch sử không phải là sự thật. Một thứ lịch sử mà Cộng Sản vẽ ra để ngu dân, phục vụ cho mưu đồ cai trị.

Đến bây giờ, khi Internet trở nên phổ biến thì mọi chuyện hầu như không còn gì có thể giấu được nữa. Sự thật là Việt Nam từng có rừng vàng, biển bạc, đất phì nhiêu… Tuy nhiên Cộng Sản đã kịp phá nát hết rồi. Cả nước bây giờ ô nhiễm khắp nơi, ô nhiễm tới mức cái khẩu trang trở thành vật bất ly thân của người Việt, và theo như tôi biết thì không nơi nào trên thế giới này có một thứ trang phục phổ biến tương tự như cái khẩu trang của người Việt hiện nay.

Về huyền sử con rồng cháu tiên cũng không thể giúp che giấu được những đức tính xấu tệ mà người Việt đương đại đang “truyền bá” khắp nơi trên thế giới.

Và cả cái gọi là chiến thắng hai đế quốc. Thực chất nó là một vết dơ của lịch sử Việt Nam thì đúng hơn. Dân tộc tôi đã bị lừa để trở thành công cụ cho Quốc Tế Cộng Sản. Kết quả là nhiều triệu người đã ngã xuống chỉ để xây nên một đế chế thực dân kiểu mới, một chế độ độc tài đang tàn phá quê hương. Đau đớn hơn là cái chế độ này nó không chỉ phá những giá trị vật chất, mà nó đã biến người Việt trở thành một giống loài hèn hạ.

Và đất nước tôi bây giờ, người Việt của tôi ở cái thời Cộng Sản này, nói một cách công bằng là chẳng có gì để tự hào nữa cả.

Cũng chính vì không có gì đáng để tự hào cho nên người ta mới lấy tửu lượng rượu bia để làm thước đo về lòng tự hào trên bàn nhậu.

Bởi không có gì nên người ta mới lấy việc thắng một trận bóng đá để tự hào.

Nếu bắt buộc phải nói về điều gì đó thì có lẽ thứ cần được nhắc tới chính là khả năng cam chịu.

Khi người ta đã chấp nhận thân phận làm nô lệ từ trong tiềm thức, thì khó có dân tộc nào có thể sánh bằng sức cam chịu của người Việt Nam tôi bây giờ.

Từ Facebook Hien Bushell